Đóng góp ý kiến và báo lỗi phiên bản mới tại đây

public6 năm trước

Review Sách “Văn Minh Phương Tây” - Thế Kỷ Của Châu Á Đã Đến

Câu hỏi chủ đạo mà cuốn sách này tập trung vào chính là câu hỏi lý thú nhất mà một nhà sử học nghiên cứu về kỷ nguyên hiện đại có thể đặt ra. Tại sao bắt đầu từ khoảng những năm 1500, vài ba quốc gia nhỏ bé miền viễn Tây của liên lục địa u-Á lại có thể nổi lên nắm quyền thống trị phần còn lại của thế giới, trong đó có cả những xã hội nằm ở phía đông lục địa u-Á vốn đông dân hơn và tinh tế hơn xét về nhiều mặt?

Câu hỏi phụ của tôi là thế này: Nếu chúng ta có thể tìm được một lời giải thích thỏa đáng về sức mạnh của phương Tây trong quá khứ, thì khi đó liệu chúng ta có thể đưa ra được dự báo về tương lai của nó không? Phải chăng đây đã thực là sự cáo chung của thế giới phương Tây và là sự ra đời của một thời đại phương Đông mới?

Trong cuốn sách này tôi muốn chỉ ra rằng cái làm cho phương Tây khác biệt với phần còn lại của thế giới – động lực chính của sức mạnh toàn cầu – là sáu tổ hợp thể chế tách biệt cùng với các ý tưởng và hành vi liên quan. Để cho đơn giản tôi gói gọn chúng vào sáu tiêu đề dưới đây:

• Cạnh tranh – sự phi tập trung hóa của cả đời sống chính trị và kinh tế, từ đó tạo ra bệ phóng cho các nhà nước dân tộc và chủ nghĩa tư bản.
• Khoa học – một phương thức nghiên cứu, tìm hiểu và cuối cùng làm thay đổi thế giới tự nhiên. Khoa học đã mang lại cho phương Tây một ưu thế quân sự quan trọng (cùng nhiều thứ khác) so với phần còn lại của thế giới.
• Quyền tư hữu đất đai – quy tắc luật pháp thực hiện vai trò bảo vệ các chủ sở hữu tư nhân và giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp giữa họ. Đây là nền tảng cho hình thái bền vững nhất của chính phủ đại diện.
• Y học – ngành khoa học mang đến những cải thiện quan trọng về sức khỏe và tuổi thọ. Ngành này khởi đầu từ các xã hội phương Tây, rồi lan tới cả các thuộc địa của họ.
• Xã hội tiêu dùng – phương thức sinh hoạt vật chất trong đó hoạt động sản xuất và mua sắm quần áo và các hàng hóa tiêu dùng khác đóng vai trò kinh tế trung tâm. Tiếu nó, cuộc Cách mạng Công nghiệp sẽ không thể bền vững.
• Đạo đức lao động – một khuôn khổ đạo đức và phương thức hoạt động xuất phát từ Ki Tô giáo Tin Lành (và các nguồn gốc khác). Đây là “ứng dụng” đã tạo nên chất keo dính cho cái xã hội năng động và đầy bất ổn tiềm tàng hình thành nên từ các “ứng dụng” 1-5 ở trên.

Tôi muốn chỉ ra rằng không phải chỉ nhờ vào sự ưu việt của mình mà phương Tây có thể chinh phục và biến phần lớn phần còn lại của thế giới thành thuộc địa; họ làm được thế còn nhờ vào những điểm yếu tình cờ của các đối thủ nữa. Chẳng hạn, vào những năm 1640, khủng hoảng công quỹ và tiền tệ, sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh lan tràn đã cùng lúc diễn ra, gây nên bạo loạn và dẫn tới cuộc khủng hoảng cuối cùng của nhà Minh ở Trung Quốc. Điều này không liên quan gì đến phương Tây cả. Cũng vậy, sự suy yếu về chính trị và quân sự của đế quốc Ottoman xuất phát từ nguyên nhân nội bộ hơn là do tác động bên ngoài. Các thể chế chính trị Bắc Mỹ hưng thịnh trong khi các thể chế chính trị Nam Mỹ lại thối nát; song Simón Bolívar2 thất bại trong việc tạo nên một Hợp chủng quốc Mỹ Latin không phải do sai lầm của những kẻ ngoại bang.

Điểm khác biệt then chốt giữa phương Tây và phần còn lại của thế giới nằm ở thể chế. Tây u bắt kịp và vượt qua Trung Quốc một phần là do ở phương Tây có nhiều sự cạnh tranh hơn xét cả trên bình diện chính trị và kinh tế. Áo, Phổ và sau đó thậm chí là cả Nga đều dần đạt được những hiệu quả cao hơn về quản lý hành chính và quân sự vì mạng lưới tạo nên cuộc Cách mạng Khoa học chỉ xuất hiện trong thế giới Ki-tô giáo chứ không phải Hồi giáo. Sở dĩ các thuộc địa cũ của Bắc Mỹ phát triển hơn nhiều so với các thuộc địa cũ của Nam Mỹ là do những người thực dân Anh đã thiết lập được một hệ thống quyền tư hữu và đại diện chính trị hoàn toàn khác so với những hệ thống mà người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã xây dựng nên ở Nam Mỹ. (Bắc Mỹ là một “hệ thống tiếp nhận mở” chứ không phải một hệ thống khép kín, chỉ hoạt động vì lợi ích của tầng lớp tinh hoa thượng lưu độc quyền và trục lợi.) Các đế quốc châu u có thể thâm nhập vào châu Phi không chỉ vì họ có súng Maxim mà còn vì họ đã phát minh ra các loại vaccine giúp phòng chống các bệnh dịch nhiệt đới mà người dân châu Phi dễ mắc phải.

Tương tự, quá trình công nghiệp hóa của phương Tây trong giai đoạn đầu phản ánh sự ưu việt về thể chế: tiềm năng về một xã hội tiêu dùng lớn đã tồn tại từ lâu trên quần đảo Anh, trước cả khi máy hơi nước hay hệ thống các nhà máy xuất hiện và phát triển. Thậm chí sau khi các công nghệ trong ngành công nghiệp gần như đã được phổ cập khắp nơi thì sự khác biệt giữa phương Tây với phần còn lại của thế giới vẫn tiếp tục tồn tại; không những thế, sự khác biệt này còn trở nên sâu rộng hơn. Với các máy se sợi và máy dệt đã được tiêu chuẩn hóa hoàn toàn, người thợ châu u hay Bắc Mỹ vẫn có thể lao động với năng suất cao hơn và người chủ tư bản của họ có thể tích lũy được của cải nhanh hơn so với người thợ hay người chủ ở phương Đông. Những đầu tư vào phát triển nền y tế cộng đồng và giáo dục công đã mang lại những lợi ích lớn lao; nơi nào không đầu tư vào hai lĩnh vực này thì người dân vẫn phải chịu đói nghèo. Cuốn sách này nói về tất cả những sự khác biệt ấy – vì sao chúng tồn tại và vì sao chúng lại quan trọng đến thế.

Vì sao Trung Hoa suy sụp còn châu u thì vùng lên?

Adam Smith cho rằng chủ yếu do Trung Hoa không chịu “khuyến khích ngoại thương”, vì thế đã đánh mất những lợi ích từ các ưu thế so sánh và sự phân công quốc tế về lao động. Song cũng có những lý giải khác. Vào những năm 1740, Charles de Secondat, Nam tước xứ Montesquieu, khi lần theo dân số lớn khác thường của Trung Hoa, ông đã lên án “kế hoạch định cư bạo ngược”, mà kế hoạch đó lại do khí hậu của vùng Đông Á gây ra:

Tôi suy luận thế này: Châu Á hoàn toàn không có vùng khí hậu ôn hòa nào hết, những nơi nằm trong vùng khí hậu rất lạnh lại tiếp giáp những vùng hết sức nóng, như Tổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Ấn Độ, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Ở châu u thì ngược lại, vùng khí hậu ôn hòa rất rộng… khiến cho khí hậu mỗi nước gần giống với nước bên cạnh; và không có sự khác biệt đáng kể giữa chúng… Từ đó suy ra rằng ở châu Á, các dân tộc mạnh trực diện các dân tộc yếu; những kẻ năng động, dũng cảm và hiếu chiến kề sát ngay những người lười biếng, nhu nhược; kẻ này do đó chế ngự, chiếm đoạt kẻ kia. Ở châu u thì ngược lại, các dân tộc mạnh đối đầu các dân tộc mạnh; và những ai gần kề nhau đều có lòng quả cảm như nhau. Đây là lý do cơ bản cho sự yếu kém của châu Á và sức mạnh của châu u; cho tự do của châu u và thân phận nô lệ của châu Á – một nguyên nhân tôi chưa từng thấy được nói đến.

Sau này những tác gia châu u tin rằng chính công nghệ phương Tây đã chiến thắng phương Đông – đặc biệt là thứ công nghệ đã tiếp tục sản sinh ra Cách mạng Công nghiệp. Earl Macartney đã ngộ ra điều này sau chuyến đi sứ khổ sở của mình đến triều đình hoàng đế Trung Hoa năm 1793 (xem phần cuối chương). Một kiểu biện giải khác, phổ biến vào thế kỷ XX, cho rằng triết lý của Khổng Tử chính là thứ đã cản trở sự canh tân. Còn những cách giải thích đương thời sai lầm khác nữa cho sự thất bại phương Đông. Xếp đầu tiên trong số “sáu ứng dụng vượt trội”, chính là thứ phương Tây có mà phương Đông thì không, đó không phải là thương mại, hay khí hậu, hay công nghệ, cũng chẳng phải là triết lý. Trên tất cả, như Smith đã nhận thấy, đó là thể chế.

Sáu ứng dụng sát thủ ấy là chìa khóa để phương Tây trỗi dậy. Câu chuyện của thời đại chúng ta – có thể tính từ thời hoàng đế Minh Trị ở Nhật Bản (1867-1912) – là câu chuyện về Phần còn lại của thế giới cuối cùng cũng đã bắt đầu áp dụng chúng. Người Nhật không biết yếu tố nào của văn hóa và thể chế Tây phương là quan trọng nhất nên họ sao chép mọi thứ, từ quần áo mặc và kiểu tóc phương Tây cho đến thực hành thực dân hóa ở các nước khác. Tiếc thay, họ bắt đầu xây dựng đế quốc vào đúng thời điểm khi cái giá của chủ nghĩa đế quốc bắt đầu vượt quá lợi ích do nó mang lại.

Những cường quốc châu Á khác – ví dụ như Ấn Độ – bỏ phí mất mấy chục năm đeo đuổi luận đề sai lầm rằng các thể chế xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đi đầu ưu việt hơn so với các thể chế dựa trên thị trường của Hoa Kỳ. Tuy nhiên bắt đầu từ những năm 1950, một vành đai lớn các nước Đông Á tiếp bước Nhật Bản học tập mô hình công nghiệp phương Tây, khởi đầu từ các ngành dệt may và sắt thép, từ đó tạo ra chuỗi giá trị. Giờ đây, chúng ta có rất nhiều lựa chọn trong việc học hỏi các ứng dụng của phương Tây. Sự cạnh tranh bên trong và chính phủ đại diện là những đặc trưng ít quan trọng của sự phát triển châu Á. Khoa học, y học, xã hội tiêu dùng và đạo đức lao động (ít chất Tin Lành hơn so với Max Weber đã tưởng) mới là quan trọng hơn hết.

Ngày nay, Singapore được Diễn đàn Kinh tế Tế giới xếp hạng thứ 3 trên bảng các quốc gia có sức cạnh tranh nhất (nghĩa là khả năng cạnh tranh với quốc gia khác). Hong Kong đứng thứ 11, sau đó là Đài Loan (thứ 13), Hàn Quốc (thứ 22) và Trung Quốc (thứ 27). Thứ tự này cũng đại thể giống với thứ tự các nước này thực hiện quá trình “Tây hóa” nền kinh tế của họ.

Ngày nay GDP trên đầu người của Trung Quốc bằng 19% của Hoa Kỳ, so với mức 4% khi họ khởi đầu công cuộc cải cách kinh tế cách đây 30 năm. Hong Kong, Nhật Bản và Singapore đã bắt đầu sớm từ năm 1950, Đài Loan năm 1970 và Hàn Quốc năm 1975. Theo tổ chức Conference Board – tổ chức nghiên cứu kinh tế hàng đầu thế giới có trụ sở tại Hoa Kỳ – hiện nay GDP trên đầu người của Singapore cao hơn của Hoa Kỳ 21%, Hong Kong cũng xấp xỉ mức đó, Nhật Bản và Đài Loan thấp hơn 25% còn Hàn Quốc thấp hơn 36%.

Phải là người dũng cảm lắm mới dám đánh cược rằng Trung Quốc sẽ không đi theo quỹ đạo ấy trong những thập kỷ sắp tới. Cuộc cách mạng hiện nay của Trung Quốc là cuộc cách mạng công nghiệp lớn nhất và nhanh nhất. Chỉ trong vòng 26 năm, GDP của Trung Quốc đã tăng gấp mười lần. Liên hiệp Anh đã từng mất tới 70 năm kể từ năm 1830 để đạt mức tăng trưởng gấp 4 lần. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tỉ lệ của Trung Quốc trong GDP toàn cầu (tính theo giá hiện tại) sẽ vượt mức 10% vào năm 2013.

Trước khủng hoảng tài chính, các nhà kinh tế ở Goldman Sachs đã tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ về GDP vào năm 2027. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến tăng trưởng của Hoa Kỳ giảm nhiều hơn so với Trung Quốc.

Xét trên một số phương diện, chúng ta có thể nói rằng thế kỷ của châu Á đã đến.

Trung Quốc sắp vượt qua tỉ lệ của Mỹ trong tổng sản phẩm công nghiệp toàn cầu và trong thực tế đã vượt qua Đức và Nhật Bản từ lúc thế kỷ mới bắt đầu. Thành phố lớn nhất của Trung Quốc – Tượng Hải – đã trở nên lớn hơn bất kỳ thành phố nào của Mỹ và đứng đầu danh sách các siêu đô thị không nằm ở phương Tây. Nếu xét về con số, tất nhiên châu Á từ lâu đã là khu vực đông dân nhất thế giới. Nhưng sự tăng trưởng dân số nhanh chóng của châu Phi đã khiến tỉ lệ dân số phương Tây liên tục bị giảm nếu ta làm phép so sánh.

Năm 1950, phương Tây được xác định theo Sammuel Huntington – gồm Tây u, Bắc Mỹ và Australia – chiếm 20% dân số thế giới. Teo tính toán của Liên Hợp Quốc thì đến năm 2050, con số ấy sẽ chỉ còn là 10%. Số liệu của chính Huntington chỉ ra sự suy giảm của phương Tây trên nhiều phương diện: ngôn ngữ (tỉ phần của phương Tây giảm mất 3% điểm từ năm 1958 đến 1992); tôn giáo (giảm dưới 1% điểm giữa các năm 1970 – 2000); lãnh thổ kiểm soát được (giảm trong suốt các năm từ 1971 đến 1993); dân số (mất 3% điểm từ năm 1971); GDP (giảm hơn 4% điểm giữa các năm 1970 và 1993) và quân số (giảm gần 6% điểm giữa các năm 1970 và 1991). Trong hầu hết các trường hợp, sự sụt giảm sẽ lớn hơn rất nhiều nếu tính từ năm 1913 hoặc 1938.

Phải chăng sự chuyển dịch trọng tâm sức hút của thế giới từ Tây sang Đông hàm ý các cuộc xung đột trong tương lai? Trong một báo cáo hội thảo, Samuel Huntington đã tiên đoán rằng thế kỷ XXI sẽ được đánh dấu bởi “sự va chạm của các nền văn minh”, trong đó phương Tây sẽ phải đối mặt với phương Đông “Trung Quốc” và Đại Trung Đông Hồi giáo, và có thể cả văn minh Chính thống giáo của Đế quốc Nga trước đây. “Các xung đột chủ yếu của nền chính trị toàn cầu,” ông viết, “sẽ xảy ra giữa các quốc gia và các nhóm có nền văn minh khác nhau. Sự va chạm của các nền văn minh sẽ chi phối nền chính trị toàn cầu.

Những đường đứt gãy giữa các nền văn minh sẽ là các trận tuyến của tương lai.” Rất nhiều người đã tỏ ra bất bình trước lời tiên đoán này ngay khi nó được xuất bản. Dù sao đây có vẻ như một cách mô tả thế giới hậu-Chiến tranh lạnh tốt hơn so với những lý thuyết cạnh tranh mà Huntington đã bác bỏ – rằng sẽ chỉ có một thế giới hậu-lịch sử (hay tân bảo thủ) dưới sự dẫn dắt của Hoa Kỳ, hay một thế giới với tự-do-cho-tất cả với gần 200 quốc gia, hoặc một thế giới hoàn toàn-không-phân-cực, nếu không muốn nói là hỗn loạn.

Văn minh phương Tây không hoàn hảo. Mỗi nước đế quốc phương Tây đều đóng góp phần nào vào những tội ác lịch sử, từ sự tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đến những điều sáo rỗng vô vị của xã hội tiêu dùng. Chủ nghĩa duy vật sâu sắc của nó đã gây ra đủ những hậu quả đáng ngờ, không chỉ là những bất mãn bản năng mà Freud khuyên chúng ta phải chấp nhận. Và chắc chắn nó đã đánh mất chủ nghĩa khổ hạnh cần kiệm mà Weber coi là tấm gương sáng trong đạo đức Tin Lành.

Nhưng cái “mớ đồ Tây” này vẫn có vẻ đang ban cho các xã hội loài người những thể chế chính trị, xã hội và kinh tế tuyệt vời nhất – những thứ tốt nhất có thể thúc đẩy khả năng sáng tạo cá nhân để giải quyết những vấn nạn mà thế kỷ XXI đang phải đối mặt. Hơn nửa thiên niên kỷ qua, không có nền văn minh nào có thể làm tốt hơn việc tìm ra và đào tạo những thiên tài ẩn mình trong cái đuôi dài phía tay phải đường phân bố tài năng. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có còn nhận ra sự ưu việt trong cái “mớ đồ Tây” kia?

Những gì khiến cho một nền văn minh trở nên thực tế đối với cư dân của nó, suy cho đến cùng, không chỉ là các lâu đài nguy nga đứng ở trung tâm, cũng chẳng phải sự hoạt động trơn tru của các thể chế họ xây dựng nên. Yếu tố cốt lõi của một nền văn minh là các bài học được giảng dạy trong nhà trường, được các sinh viên hiểu rõ và nhớ đến mỗi khi gặp khó khăn. Nền văn minh của Trung Quốc đã từng được xây dựng lên thông qua việc giảng dạy Khổng Giáo. Văn minh Hồi giáo – sùng bái sự vâng phục – được phát triển dựa trên Kinh Coran. Nhưng đâu là những bài học của văn minh phương Tây, có thể chống đỡ cho niềm tin của chúng ta vào sức mạnh hầu như vô tận của con người cá nhân tự do? Và liệu chúng ta có thể truyền thụ những bài học ấy tốt đến mức nào khi mà các nhà lý luận giáo dục của chúng ta căm ghét những kiến thức máy móc và việc học thuộc lòng? Rất có thể mối nguy hiểm thực sự không phải là sự trỗi dậy của Trung Quốc, Hồi giáo hay khí thải CO2, mà là sự mất niềm tin vào nền văn minh mà chúng ta kế thừa từ các tiền bối của mình.

Trích trong “Văn minh phương Tây và phần còn lại của Thế Giới” – Niall Ferguson

Theo Bookaholic.vn

----------------------------

Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership

1,127 lượt xem