Ka Ly@Authority
5 năm trước
[Review] Văn Cao - Chông Chênh Giữa Tiêu Dao Và Trách Nhiệm
Người ta oán trách Văn Cao vì đã từng làm sát
thủ, từng viết những ca khúc đầy ngôn từ bạo lực; người ta cũng từng đấu tố Văn
Cao vì tư tưởng lung lạc của ông dưới thời Cộng Sản; và cũng có rất nhiều người
phải nghiêng mình thán phục tài năng âm nhạc của ông cho dù ông viết các ca
khúc cổ động hay các ca khúc trữ tình. Tôi cho rằng Văn Cao là một người bị
giằng xé giữa nhiều lựa chọn, mối mâu thuẫn giữa con người cá nhân và con người
trách nhiệm; và điều kỳ lạ của Văn Cao đó là ông hết mình trong sự mâu thuẫn
ấy, hết mình tới nỗi cực đoan, tới nỗi ông không chắc chắn về con người thật
của mình. Dường như ông cũng nhận thức được sự mâu thuẫn của mình, và khi âm
nhạc không thể chuyển tải được mâu thuẫn đó, ông đã viết trong thơ:
Buổi sáng nay không phải mình
thức dậy
Một
người nào trong tôi đang thở
Trước
mặt tôi
Buồn
nửa đêm nửa ngày len lỏi
Nửa
phố mặt trăng nửa phố mặt trời
Từ
khi ấy chúng tôi, hai người suy nghĩ
Hai
kẻ thù nhau
Hai
thái cực tâm hồn
Hai
người ấy trong một người chịu đựng
Mưu
hại lẫn nhau
Không
biết ngày đêm, không biết giả thật
Từ
phút ấy, tôi không còn thật nữa.
(Trích “Năm buổi sáng không có trong sự thật” – Văn Cao)
Đoạn thơ
này phần nào giúp tôi lý giải các nghịch lý của Văn Cao. Một phần của ông là
những trách nhiệm với dân tộc, với bạn bè, đồng đội; một phần khác lại ước mơ
một đời sống tự do, thoát tục, thoát khỏi mọi phận vị. Tôi cho rằng đó là tâm
sự chung của phần lớn văn nghệ sĩ lãng mạn trưởng thành trong giai đoạn 30-45 ở
Việt Nam. Ban đầu, khi Việt Nam còn chịu dưới ách đô hộ của thực dân Pháp thì
khao khát tự do cá nhân được đồng nhất với tự do cho dân tộc, nhưng khi dân tộc
đã dành được độc lập và chính quyền Cộng Sản thực hiện chính sách văn hóa theo
Đề cương văn hóa năm 1943 của Trường Chinh vềđềcao tính đại chúng và giai cấp
thì tự do cá nhân đã mâu thuẫn với thứ được gọi là “quyền lợi của nhân dân”. Có
lẽ, Văn Cao và nhiều người bạn của ông không sớm nhận thức được điều này như
Phạm Duy, họ chọn ở lại để thực hiện trách nhiệm của mình với chính quyền mới
để rồi sa lầy giữa hai con người “mưu hại lẫn nhau”.
Văn Cao
(1923 – 1995) là nhạc sĩ thủ lĩnh trong phong trào tân nhạc ở Hải Phòng. Ông
vốn là con của giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Ông bắt đầu học âm nhạc
tại trường dòng Saint Josef ở bậc trung học. Do gia đình sa sút, Văn Cao bỏ
học ở năm thứ hai bậc thành trung, rồi đi làm điện thoại viên ở sở Bưu
điện Hải Phòng nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Con người tự do của Văn Cao
Văn Cao viết ca khúc đầu tiên là “Buồn tàn
thu” khi mới 16 tuổi, lúc này ông đã tham gia nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng
Qúy. Thời điểm Văn Cao viết “Buồn tàn thu” trùng với những ngày tang lễ của nhà
văn Vũ Trọng Phụng, do đó, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha sau này đã viết: “16
tuổi, một ngày mùa thu, khi cả Hà Nội tiễn đưa nhà văn yểu mệnh nhưng cực kỳ
nổi tiếng Vũ Trọng Phụng về cõi vĩnh hằng, nhạc phẩm đầu tiên – “Buồn tàn thu”
của Văn Cao – đã ra đời. Bài hát với hơi hám của ca trù, phong vị Đường thi ở
lời ca, đã mang một tiếc nuối về những sự ra đi không trở lại: “Đêm mùa thu
chết – Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng …”
Ngay
sau “Buồn tàn thu” là “Thiên Thai”. Có thể nói “Thiên Thai” thể hiện rõ ràng
nhất giấc mơ thoát tục của Văn Cao. Qua câu chuyện hai chàng Lưu – Nguyễn tới
cõi tiên Thiên Thai cùng với nét nhạc bay bổng, ta có thể thấy ẩn sâu trong tâm
trí của Văn Cao là giấc mơ một cuộc sống thong dong tự tại. Khi viết bài này,
ông mới 18 tuổi và phỏng theo thơ Hoàng Thoại. Ca khúc “Thiên Thai” là ca khúc
có nhiều biến tấu phức tạp với 100 ô nhạc và các biến cảnh tuần tự như trong
trường ca. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy cho chúng ta biết thêm về ca khúc
này: “Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Đào
nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo tôi thật
là tuyệt diệu ! Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu
hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong
khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một
lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó… thì “Thiên Thai” của Văn Cao đã
vươn lên một thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số chín
mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần
diệu…”
“Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên
trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.”
Sau thành công của “Buồn tàn thu” và “Thiên
Thai”, Văn Cao viết “Suối mơ” trong một lần đến thăm dòng suối bên đền Cấm tại
thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn. Cảnh sắc tại đền Cấm giờ đây không còn có
được vẻ đẹp nguyên sơ nhưng ta vẻ đẹp của “Suối Mơ” thì vẫn còn mãi. Phần lời
của ca khúc này cũng thể hiện giấc mơ về một cảnh sống lánh đời:
“Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà
bên suối .
Nghe
suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát.
Đàn
nai đùa trong khóm lá vàng tươi .
Tơ đàn chùng theo với tháng năm,
Rừng
còn nhớ tới người.
Trong chiều nào giữa chốn đây,
Hồn
cầm lắng tiếng đời.”
Tại Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy,
khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy hát và gẩy guitar bài “Buồn
tàn thu” khiến Văn Cao cảm thấy như gặp được tri kỷ. Hai ông nhanh chóng thân
thiết và chính Văn Cao đã khuyến khích cũng như hướng dẫn Phạm Duy sáng tác.
Văn Cao và Phạm Duy viết chung với nhau bài “Bến xuân”, có lẽ đây là bài hát
đầu tiên có không khí mùa xuân mà Văn Cao viết (những ca khúc trước đó thường
lấy cảm hứng từ mùa thu). “Bến xuân” được Văn Cao sáng tác để thể hiện tình yêu
của mình với ca sĩ Hoàng Oanh khi nhớ lại ký ức Hoàng Oanh tới thăm nhà ông tại
đò Rừng:
“Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em
đến tôi một lần
Bao
lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân
Từng
đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành
đào hoen nắng chan hoà!
Chim
ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn
mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu
nhau theo dốc mới nơi ven đồi
Còn
thấy chim ghen lời âu yếm
Tới
đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt
em như dáng thuyền soi nước
Tà
áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.”
Phạm Duy đặc biệt rất thích ca khúc “Trương
Chi” của Văn Cao và cho rằng đây là ca khúc nói tên tiếng lòng của ông. Trương
Chi được viết theo lối trường ca, mượn câu chuyện tình tuyệt vọng của chàng ca
sĩ Trương Chi, Văn Cao đã thể hiện những vẻ đẹp của âm nhạc một cách tuyệt
diệu. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy đã viết về “Trương Chi” như
sau: “vào lúc tân nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được
những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có.” Trong phần
lời của ca khúc có những câu thơ tuyệt đẹp thể hiện con người tiêu diêu giữa
cõi âm nhạc:
“Ngồi đây ta gõ ván thuyền
Ta ca Trái Đất còn riêng ta”
Cho đến
nay, “Trương Chi” vẫn là ca khúc khó thể hiện nhất trong số các ca khúc của Văn
Cao. Tôi xin được chọn phần trình bày của ca sĩ Thái Thanh. Mặc dù Thái Thanh
chưa hoàn toàn thể hiện được tinh thần của “Trương Chi” nhưng cũng chỉ có bà có
thể thể hiện được những độ khó trong khúc thức và luyến láy của ca khúc.
Nếu Văn Cao khuyến khích Phạm Duy sáng tác
thì chính Phạm Duy đã khuyến khích Văn Cao ra Hà Nội. Văn Cao thuê một căn hộ
nhỏ tại 171 phố Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền). Ông đã theo học dự
thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Lúc này, ông sáng tác nhiều thơ, truyện
ngắn đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy. Trong 2 năm 1943 và 1944, ông đã xuất hiện
tại các cuộc triển lãm hội họa ở nhà Khai Trí Tiến Đức với các bức tranh sơn
dầu “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”và đặc biệt là bức “Cuộc khiêu
vũ những người tự tử”. Tranh của ông được báo chí đánh giá cao nhưng lại không
bán được nên những ngày sống ở Hà Nội là những ngày thiếu thốn của ông. Cũng
trong thời gian này, Việt Minh đã tiếp cận ông và thuyết phục ông tham gia
phong trào Cách mạng.
Con người với các trách nhiệm
và phận vị
Ngay từ
ngày đầu trong sự nghiệp âm nhạc của mình Văn Cao đã tham gia nhóm nhạc Đồng
Vọng (1930), tập hợp các nhạc sĩ ở Hải Phòng mà đứng đầu là Hoàng Qúy và Tô Vũ
để tạo giọng nhạc hùng tráng, khích lệ tinh thần dân tộc phục vụ các hoạt động
hướng đạo sinh. Trong quãng thời gian này, ông sáng tác các ca khúc cổ động
như “Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh em khá cầm tay”. Nhưng chỉ đến khi chính
thức tham gia Việt Minh, âm nhạc phục vụ Cách mạng của ông mới đạt đến đỉnh cao
của nghệ thuật.
Năm 1944,
Vũ Qúy (1914 – 1945), nhà hoạt động cách mạng, Quyền Bí thư Ban cán sự
Đảng Hà Nội đã tới thuyết phục Văn Cao tham gia Cách mạng ngay tại nhà riêng
của Văn Cao ở Nguyễn Thượng Hiền. Ngay hôm ấy, Văn Cao đã sáng tác ca khúc
“Tiến quân ca” và được Vũ Qúy gửi đăng trên báo “Độc lập” trong tháng 11 năm 1994.
Về sau, chính Hồ Chí Minh đã ký duyệt “Tiến quân ca” làm Quốc ca của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không chỉ sáng tác các ca khúc Cách mạng, ông còn tham gia
nhiệt tình các hoạt động của Việt Minh, đặc biệt là những nhiệm vụ đòi hỏi sự mạo
hiểm. Văn Cao thực hiện 2 vụ ám sát và cảm hóa những người chỉ điểm là vụ Võ
Văn Cầm ở Hà Nội (cảm hóa) và vụ Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng (ám sát). Đồng thời,
ông cũng tổ chức dạy võ thuật cho các đồng đội của mình vì từ nhỏ ông đã được học
võ và giỏi võ, đã từng tham gia biểu diễn võ thuật thời niên thiếu. Đến năm
1946, Văn Cao tham gia áp tải vũ khí và tiền mặt vào miền Nam. Lúc này, ông được
phân làm Ủy viên Chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, phụ trách Tổ điều tra của Công
an Liên khu 3 và viết các bài cho báo Độc Lập. Năm 1947, ông lại được cử vào đội
điều tra đặc biệt lên biên giới phía Bắc để tìm cách thực hiện liên minh với
Vua Mèo nhằm ngăn chặn sự tràn sang của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Sau khi nhiệm
vụ thành công, Văn Cao đã từ chối chức vụ được đề xuất cho ông trong ngành Công
an với lý do “Công việc này không thích hợp với tôi”. Trong 3 năm từ 1947 đến
1949, ông sáng tác nhiều ca khúc Cách mạng quan trọng như “Làng tôi, “Tiến về
Hà Nội”, “Ngày mùa” và đặc biệt là “Trường ca Sông Lô”.
Mặc
dù hết mình cho các nhiệm vụ của Việt Minh nhưng cảm hứng lý tưởng Cách mạng
này không tồn tại lâu với Văn Cao. Ông đã sớm nhận thức được các nhiệm vụ ấy
khiến mình đau đớn như thế nào. Theo như lời nhạc sĩ Văn Thao, con trai nhạc sĩ
Văn Cao kể lại thì ông đã rất hối hận với hành vi giết người của mình: “Với
Văn Cao việc phải trừ khử một người là điều ông không hề muốn. Nhưng vì nhiệm
vụ cách mạng, vì sự sống của muôn người nên bắt buộc ông phải ra tay tiêu diệt
những tên Việt gian ngoan cố. Ta có thể hiểu ông qua những câu thơ ông để lại:
“Giữa sự sống và cái chết/ Tôi chọn sự sống/ Để bảo vệ sự sống/ Tôi chọn sự
chết”. Trong Văn Cao có hai con người. Con người của nghệ thuật và con người
làm cách mạng. Nhiều người muốn tìm hiểu phần con người thứ hai của ông. Nhất
là những sự kiện mọi người gọi là “thành tích phi thường” ông đã làm trong thời
gian phụ trách Đội trừ gian. Ông thường né tránh và ít khi nhắc đến. Có lần ông
tâm sự với tôi: “… Bố đã từng giết một con người… Ông ta nhìn vào họng súng,
nhìn bố với đôi mắt ngơ ngác như muốn hỏi – Sao lại giết tôi. Cho đến giờ, bố
vẫn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy…”.” Trong bài thơ “Mùa xuân trong
đời tôi”, Văn Cao cũng thể hiện một tâm trạng chán ghét chiến tranh tột độ:
Cả mùa xuân đời tôi
Đã
qua cuộc chiến tranh tàn khốc
Anh
hùng và man rợ
Thần
thánh và quỷ dữ
Tỉnh
giấc ngủ buổi sáng đầy tiếng bom đạn nổ
Sâu
những mơ mộng buổi chiều là từng tiếng xe xa
Những
đêm đi trong những ngọn lửa đốt nhà dài từng cây số
Bước
lên những xác người và lao mình vào những lỗ châu mai lô cốt
Tôi
đã nhìn thấy chung quanh tất cả
Những
con người và con vật
Dũng
cảm và hèn nhát
Cao
quý và ti tiện
Trung
thực và bất lương
Trong
cả mùa xuân đời tôi
Trong
cả một cuộc chiến tranh giữ nước
Tôi
đã mất sắc da tuổi trẻ
Nhưng
một tôi đã rắn chắc lại rồi
Mùa
xuân không kịp nở
Mãi
trong tôi
Những
tháng ngày khát khao hy vọng.
Năm 1956,
Văn Cao viết một bài thơ có tên là “Anh có nghe thấy không”. Bài thơ thể hiện
nhiều tâm sự thất vọng với các chính sách của chính quyền Cộng Sản sau thời
gian đấu tố, diệt văn hóa phong kiến và tư sản trong Cải cách Ruộng đất. Bài
thơ thậm chí còn bị Xuân Diệu lên án là “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy
nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì”:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không
một cuốn sách chờ đợi
Dù
những ngôi sao đang nở trên trời
Dù
đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Tất cả hướng về biển
Bọt
cứ tan trên bãi cát xa
Mà
cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao
giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao
giờ
Bao
giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của
chúng ta
Vẫn
ngày ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong
những áo dài đen nham hiểm
Bẻ
cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong
những tủ sách gia đình
Ở
điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng
bước chân các cô gái
Từng
con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt
quầng thâm còn nhỡ mãi đêm
Chúng nó còn ở lại
Trong
những tuổi bốn mươi
Đang
đi vào cuộc sống
Như
nấm mọc trên những thân gỗ mục
Người bán giấy cũ
Đã
hết những trang tiểu thuyết ế
Những
trang báo ngày xưa
Đang
bán đến những trang sách mới
Những
bài thơ mới nhất của anh
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để
vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy
năm một điệu sáo
Như
giọng máy nước thâu đêm chảy
Chung quanh còn những người
khôn ngoan
Không
có mồm
Mắt
không bao giờ nhìn thẳng
Những con mèo ngủ yên trên ghế
Trong
một cuộc dọn nhà
Những con sên chưa dám ló đầu ra
Những
cây leo càng ngày càng, tốt lá
Một nửa thế giới
Một
nửa tâm hồn
Một
nửa thế kỷ
Chưa
khai thác xong
Bây giờ không còn những tiểng
nổ to
Nhưng
còn những tiếng rạn vỡ
Có
thể thu hết những khẩu súng phản động
Nhưng
vẫn còn
Những
khẩu súng đưa người tự tử.
Anh có nghe thấy không
Chỗ
nào cũng có tiếng
Chưa
nói lên
Những người của chúng ta
Đang
mờ mờ xuất hiện
Le
lói hy vọng
Trên
những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá
trị
Đốt
nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với
những người không phải của chúng ta
Anh
có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để
mở tung các cánh cửa sổ
Mở
tung các cửa bể
Và
tung ra hàng loạt hàng loạt
Những
con người thật của chúng ta.
Khi hai tờ
Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, Văn Cao cũng giống như nhiều nghệ sĩ khác bị
bắt đi học tập cải tạo chính trị vào năm 1958. Từ đó cái tên của Văn Cao không
còn được nhắc đến trên báo chí nữa. Mặc dù ông vẫn kiếm sống bằng việc viết
nhạc cho các vở kịch, các chương trình kỷ niệm, vẽ sân khấu, vẽ trang trí hộp
diêm… nhưng các ca khúc của ông bị cấm biểu diễn chính thống tại miền Bắc dưới
chế độ của nhà nước Cộng Sản. Tuy nhiên, các ca khúc của ông lại được biểu diễn
rất phổ biến ở miền Nam bởi Thái Thanh, Ngọc Hạ, Hoàng Oanh… dù chưa có sự cho
phép của tác giả. Thậm chí, ca khúc “Không quân Việt Nam” còn được lấy làm nhạc
hiệu của lực lượng không quân Việt Nam Cộng Hòa.
Sau thắng lợi năm 1975, Văn Cao đã sáng tác ca khúc “Mùa xuân
đầu tiên”, nhưng ca khúc bị cho là đi ngược lại đường lối và chính sách của Đảng,
do đó không được biểu diễn và phát hành. Nhưng nhờ ca khúc được dịch phần lời
sang tiếng Nga và được phổ biến ở Nga mà ca khúc không bị quên lãng.
Phải đến năm 1980, nhờ chính sách Đổi mới của
Nguyễn Văn Linh, các ca khúc của Văn Cao bắt đầu được biểu diễn trở lại. Năm
1981, một cuộc thi sáng tác Quốc ca được tổ chức nằm gạt “Tiến quân ca” của Văn
Cao ra khỏi vị trí quan trọng trong lễ nghi của nhà nước Cộng Sản, tuy nhiên
sau cùng, kết quả không được công bố và “Tiến Quân Ca” vẫn tiếp tục là Quốc ca
cho đến ngày nay. Năm 1988, khi Hội nhà văn Việt Nam phục hồi tư cách cho nhiều
văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, ông mới chính thức được xuất hiện
trở lại. Ông xuất bản tập thơ “Lá” và các ấn phẩm âm nhạc cũng dần dần được in
ấn trở lại.
Mặc dù là
nhạc sĩ vĩ đại nhất trong số các nhạc sĩ gắn bó với chính quyền Cộng Sản nhưng
Văn Cao chưa từng có một buổi biểu diễn toàn bộ các nhạc phẩm của riêng mình.
Ước mơ của ông rất nhỏ nhoi, đó là được có được buổi biểu diễn ấy. Nhạc sĩ Đinh
Tiến Dũng đã mở đầu bộ phim tư liệu về Văn Cao làm năm 1992 bằng chính ước mơ
nhỏ nhoi ấy của ông.
Đến năm 1995, Văn Cao mất do căn bệnh ung thư
phổi. Ông đã sống một cuộc đời với nhiều thăng trầm, chông chênh giữa những
thái cực để rồi nhận ra điều bất biến đích thực chính là tình yêu, thứ tình yêu
vừa khoảnh khắc lại vừa vĩnh cửu. Trong một bài thơ viết năm 1994, trong cơn
bệnh nặng, trước khi qua đời, ông đã viết:
Không có hai mùa xuân
trong
một đời người
Ôm
những cây đời thay lá
Một
mùa xuân trong những chuỗi ngọc
Sâu
những tháng năm
những
giấc mơ khát vọng
những
niềm tin
Không
bao giờ thay đổi
Sự
vĩnh cửu của con người
chỉ
khao khát tình yêu
Giữa
anh và em
Không
gian nhỏ lại
Thời
gian khép lại
Một
mùa xuân
Không
có hai lần.
------------
[Liên Kết Với Tác Giả Bài Viết - Cộng Đồng Tác Gỉa Chuyên
Sâu AUTHORITY]
Tác giả: Thủy Nguyên Hà
Sáng tạo văn chương như hành trình khám phá nội tâm.
Xem thêm nhiều bài viết khác của tác giả tại Hà Thủy Nguyên
Follow Facebook Authority
- Cộng Đồng Tác Gỉa Chuyên Sâu để đọc thêm các bài viết
mang tính chất chuyên sâu thuộc nhiều lĩnh vực/ chủ đề khác nhau từ các tác giả
là Blogger/ Author đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
----------------------------
Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership
584 lượt xem