[Tâm Lý] Một Mình Không Có Nghĩa Là Cô Đơn
Một nghiên cứu mới vừa tiết lộ việc ở một mình liên quan như thế nào đến cảm giác cô đơn.
New research reveals how being alone is related to feeling lonely.
· Tâm lý phân loại cảm giác cô đơn từ sự cô lập xã hội nhưng chúng ta sẽ khảo sát bằng cách nghiên cứu cả hai.
· Psychology distinguishes feeling lonely from being socially isolated, but uses surveys to study both.
· Một cuộc nghiên cứu mới, đồng nghiệp và tôi đã thử thu âm lại cuộc sống hằng ngày để xem xét thời gian sống một mình của một người.
· In new research, my colleagues and I sampled sounds of daily life to assess a person's time alone.
· Chúng tôi nhận thấy mối quan hệ giữa việc cô đơn và cảm giác cô đơn không mạnh và có sự biến thiên.
· We found that the relationship between being alone and feeling lonely is weak and curved.
Cô đơn là một cảm giác. Đó là cảm giác bị ngắt kết nối với người khác, theo kiểu là không tiếp xúc xã hội và sự giao tiếp mà bạn muốn với người khác. Đó là về cách bạn nhìn nhận thế giới xung quanh và nó liên quan đến nhu cầu và mong muốn cụ thể của riêng bạn. Nghĩa là nó mang tính chủ quan . Một số người có thể muốn nhiều kết nối và cảm thấy cô đơn nếu họ phải dành một chút thời gian cho bản thân. Những người khác có thể muốn ít hơn và chỉ cảm thấy cô đơn khi họ bị cô lập sâu sắc – hầu như không bao giờ nói chuyện với người khác.
Being lonely is a feeling. It’s about feeling disconnected from others, not having the kind of social contact and communion you want with other people. It’s about how you perceive the world around you, and it’s related to your own particular needs and wants. That means it’s subjective. Some people might want a lot of connection, and feel lonely if they have to spend even a bit of time alone. Others might want less, and only feel lonely when they’re deeply isolated—hardly ever talking to others.
Trong một thời gian dài, tâm lý học đã phân biệt giữa cô đơn và ở một mình nhưng rất khó để đo lường một cách chính xác. Hầu hết các nhà tâm lý học trước đây đã cố gắng nghiên cứu sự khác biệt này bằng cách tiến hành nhiều khảo sát. Khảo sát mọi người về cảm xúc cô đơn của họ là dễ dàng không: mọi người ở trạng thái tốt sẽ kể lại cảm giác của họ. Nhưng việc đo lường mức độ cô đơn của một người nào đó - hoặc sự cô lập xã hội, như nó thường được gọi trong tài liệu nghiên cứu - là khó hơn. Các nhà nghiên cứu đã hỏi nhiều bạn bè của họ hay hỏi xem mọi người nhớ xem họ đã dành bao nhiêu thời gian cho người khác. Hoặc hỏi xem mọi người thuộc về bao nhiêu nhóm và cộng đồng khác nhau. Nhưng tiêu chuẩn vàng thực sự không phải là dựa vào nhừng gì ai đó nói với bạn về thời gian ở mình của họ mà là có thể tự mình quan sát và đo lường điều đó. Trong một bài nghiên cứu mới, tôi và đồng ngiệp đã có thể làm được điều này.
For a long time, psychology has drawn a distinction between being lonely and being alone—but it’s been difficult to measure it precisely. Most previous psychologists have tried to study this distinction using surveys. Asking people about their feelings of loneliness is easy: people are in a good position to report how they feel. But getting a measure of how alone someone is—or their social isolation, as it is often called in the research literature—is harder. Researchers have asked about how many friends a person has, or asked people to remember how much time they’ve spent with others, or asked about how many different groups or communities a person belongs to. But the gold standard really would be not to rely on what someone is telling you about their time alone, but to be able to observe and measure it ourselves. In a new research paper, my colleagues and I were able to do this.
Việc đo lường thời gian mà một người dành cho việc ở một mình là một điều khó khăn. Bạn sẽ làm điều này như thế nào? Bạn có muốn ngồi một chỗ với cây bút và bìa kẹp hồ sơ để xem mọi người đã làm gì cả ngày không?
Measuring how much time people spend alone is hard. How would you do it? Would you just sit around with a pen and clipboard watching what people did all day?
· Câu trả lời là không, điều đó chứng tỏ người đó sẽ không bao giờ cô đơn.
· No, then the person would never be alone.
Bạn có lắp máy quay trong nhà, nơi làm việc, ô tô và những nơi khác không?
Would you put up a video camera in their house, work, car, and every other place they are likely to stay?
· Tất nhiên, nhưng sẽ thật sự khó khăn để đảm bảo rằng camera sẽ ghi lại được tất cả hoạt động cả ngày của họ, bởi vì một số nơi camera sẽ không ghi hình lại được. Ngoài ra, hãy nghĩ xem khoảng thời gian bạn ngồi xem video để xem xét họ có cảm thấy cô đơn hay không.
· You could, but it would be really difficult to make sure you’re capturing their full day, since they might go somewhere new without cameras. Plus, think of all the time you’d have to sit watching video to see if they were alone or not.
Cách cuối cùng chúng tôi đã tiến hành ghi lại thời gian một mình là thông qua một máy ghi âm mà người đó mang theo cả ngày, trong vài ngày. Thay vì ghi âm liên tục, mọi người chỉ ghi âm ngắn gọn khoảng 10 phút một lần trong ngày. Việc ghi âm thay vì sử dụng video và chỉ là một mẫu âm thanh ngắn thay vì mọi âm thành đã giúp chúng tôi cân bằng được những lo ngại về quyền riêng tư. (Hãy nhớ Googke Glasses tốt như thế nào, nó sẽ ghi hình một cách liên tục, phản ứng khi mọi người đeo chúng ở công cộng?) Nó cũng cân bằng những lo ngại về mã hóa. Mỗi tệp âm thanh được ghi lại để giúp chúng tôi mã hóa thủ công bằng một hỗ trợ nghiên cứu đã được đào tạo. Đó là cách tốt nhất để đảm bạn bạn nhận được thông tin chính xác về những gì được ghi lại – nhưng nó cũng đòi hỏi về thời gian. Chỉ cần nghe một đoạn ngắn cứ sau 10 phút hoặc lâu hơn trong suốt cả ngày sẽ giúp giảm bớt công sức của con người. (Lưu ý rằng trong một bài báo khác gần đây, chúng tôi đã nhận thấy AI chỉ chính xác khoảng 80% khi mã hóa cuộc nói chuyện từ loại tệp âm thanh này. Chắc chắn lý do là ấn tượng không đủ chuẩn xác để nghiên cứu một cách thỏa đáng.
The way we ended up capturing time alone was through a sound recorder that the person wore with them throughout the day, over the course of several days. Instead of continuously recording, people just had brief recordings made every 10 or so minutes throughout the day. Using recording instead of video, and just samples of audio instead of every sound, helped us balance privacy concerns. (Remember how well Google Glasses, which recorded continuously, went over when people wore them in public?) It also balanced concerns about coding. Every single sound file recorded for our study was coded by hand by a trained research assistant. That’s the best way to make sure you’re getting accurate information about what was recorded—but it also requires a lot of time. Only having to listen to a short snippet every 10 minutes or so throughout the day cuts down on the human effort required. (Note that in another recent paper, we found AI was only around 80% accurate in coding talking from this type of sound file. Definitely impressive, but not accurate enough for careful research.)
Thực ra đây là phương pháp mà người cố vấn cũ của tôi, Prof.Matthias Mehl đã hoàn thiện trong nhiều năm. Thiết bị kích hoạt điện tử (EAR) mà ông phát triển lần đầu tiên là một máy ghi âm được thiết lập để bật và tắt đều đặn trong ngày. Qua nhiều năm, nó đã được phát triển thành một ứng dụng trên điện thoại ghi lại và lưu trữ âm thanh trên điện thoại Android. Chúng tôi thường đưa cho những người tham gia nghiên cứu một chiếc điện thoại to cồng kềnh có bao da điện thoại đeo hông và một dấu hiệu cảnh báo được dán trên đó, điều này giúp những người ở gần những người tham gia nghiên cứu của chúng tôi biết được rằng họ đang bị ghi âm. Thiết bị này cho phép các nhà nghiên cứu theo dõi những người tham gia đã sẵn sàng (tức là những người đã được giải thích trước một cách đầy đủ về cách hoạt động của nghiên cứu) trong cuộc sống hằng ngày của họ, giúp chúng ta biết họ không làm gì khi không ở trong phòng thí nghiệm. Trong gần hai thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu đã sử dụng phương pháp này để nghiên cứu về hành vi của con người “trong tự nhiên”. Nghiên cứu mới của chúng tôi về sự cô đơn đã kết hợp từ một số dữ liệu từ một số nghiên cứu trước đây để đánh giá tốt hơn lượng thời gian một mình. Tôi trước đây đã viết về cách mà điều này mang lại cái nhìn sâu sắc về tính cách – và những hành vi mà đặc điểm tính cách chuyển thành trong cuộc sống hàng ngày).
Actually, this is a method that Prof. Matthias Mehl, my former mentor, has been perfecting for years. The Electronically Activated Recorder (EAR) device that he first developed was an audio recorder set up to turn on and off at regular intervals throughout the day. Over the years, it has been developed into a phone app that records and stores sounds on an Android phone. We typically give research participants a big clunky phone with a hip holster and a caution sign affixed to it, which gives people near our study participants a clue that they’re being recorded. The device allows researchers to follow willing participants (who get a full explanation of how the study will work ahead of time) during their daily life, giving us a window into what they do when they’re not in the lab. Over the past almost two decades, many studies have used this method to understand human behavior “in the wild.” Our new study of loneliness combined data from several of these previous studies to better assess the amount of time spent alone. (I’ve previously written about how this gives insight into personality—and what behaviors personality traits translate into in daily life.)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lượng thời gian một người ở một mình được đo bằng cách tính tỉ lệ các tệp tin mà một người đang nói chuyện trong đó. Hệ thống mã hóa cẩn thận để phân biệt điều này với một tệp âm thanh trong đó một người ở nơi công cộng, nơi có thể nghe thấy những giọng nói khác. Nếu có người đang nói chuyện ở phía trước, bên cạnh thiết bị thì được tính là đang ở bên ai đó. Nếu có tiếng nói ở phía sau, điều này có thể cho thấy ai đó đang ở trong văn phòng, quán cà phê, hoặc ký túc xá – nhưng không nhất thiết phải ở bên cạnh ai đó – điều đó sẽ không được tính là ở cùng ai đó. Vì vậy cuối cùng chúng tôi đã đo lường liệu bạn có dành từ 0% đến 100% thời gian ở một mình hay không.
In our study, the amount of time a person spends alone was measured by calculating the proportion of files in which a person was talking to someone else. The coding system is careful to distinguish this from a sound file where a person is just in a public place, where other voices can be heard. If there’s talking in the foreground, next to the device, it counts as being with someone. If there’s talking in the background, which might indicate that someone is in an office, coffee shop, or dorm—but not necessarily next to someone—it doesn't count as being with someone. So we ended up measuring whether you spent between 0% and 100% of your time alone.
Vậy điều rút ra từ tất cả phép đo này là gì? Mối quan hệ giữa việc cô đơn và thời gian ở một mình rất mỏng manh và có sự biến thiên.
So what’s the big takeaway from all this measurement? The relationship between loneliness and time spent alone is weak and curved.
· Nó thật sự mỏng manh vì mức độ thời gian ở mình chỉ giải thích được 3% sự thay đổi của sự cô đơn. Nếu bạn biết ai đó dành bao nhiêu thời gian ở một mình, bạn sẽ không thể dự đoán chính xác họ cô đơn đến mức nào.
· It’s weak because knowing how much time spent alone only explained 3% of the variation in loneliness. If you know how much time someone spent alone, you wouldn’t be able to predict very well at all how lonely they are.
· Nó bị biến thiên vì thời gian ở một mình nhiều hơn không chỉ dẫn đến cảm giác cô đơn. Trên thực tế những người dành từ 25% đến 75% thời gian một mình trong ngày đều có khả năng cô đơn thấp như vậy. Chỉ khi ở một mình ở mức độ cao – hơn 75% - chúng ta mới thấy mức độ cô đơn cao hơn.
· It’s curved because more time alone doesn’t just lead to more loneliness in a straightforward way. In fact, people who spend anywhere from 25% to 75% of their days alone are all likely to have similarly low levels of loneliness. It’s only at high levels of time spent alone—more than 75%—that we expect to see higher levels of loneliness.
· Ví dụ: Nếu một người dành thời gian 50% vào thời gian ở một mình, chúng tôi mong đợi họ đánh giá mức độ cô đơn của mình là 2 trên 10. Nếu họ dành 95% thời gian ở một mình, chúng tôi mong đợi họ đánh giá sự cô đơn của mình là 3 trên 10. (Hãy nhớ - chỉ có mối quan hệ ở đây)!
· For example, if a person spends 50% of their time alone, we’d expect them to rate their loneliness as a 2 out of 10. If they spend 95% of their time alone, we’d expect them to rate their loneliness as a 3 out of 10. (Remember—there’s only a weak relationship here!)
Đây là biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa sự cô đơn và thời gian ở một mình.
Nguồn: A. Danvers
Vì vậy hãy nhớ rằng: ở một mình không giống như cảm thấy cô đơn và thực sự chỉ khi dành thời gian một mình quá mức thì chúng ta mới mong đợi mọi người bắt đầu cảm thấy cô đơn hơn.
So remember: being alone isn’t the same as feeling lonely, and it’s really only at the extremes of spending time alone that we’d expect people to start feeling more lonely.
Tác giả: Alexander Danvers, Ph.D.
--------------------
Dịch giả: Đan My
Biên tập: Mẫn Nhy
Nguồn ảnh: Pinterest
Link bài gốc: Loneliness Is Not Being Alone
(*) Bản quyền bài dịch thuộc về YBOX.VN. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là “Tên dịch giả - Nguồn: Tâm Lý Học Tuổi Trẻ”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
(**) Tâm lý học tuổi trẻ mong nhận được sự ủng hộ và góp sức của các bạn. Trở thành Cộng tác viên để rèn luyện ngoại ngữ và đóng góp tri thức chuyên sâu về tâm lý cho cộng đồng tại đây: https://ybox.vn/idy8l214r1c6yo
(***) Follow Facebook Tâm Lý Học Tuổi Trẻ tại www.facebook.com/tamlyhoctuoitre để đọc các bài dịch khác và cập nhật các bài viết mới hằng ngày.
----------------------------
Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership
148 lượt xem