Hà Anh@Viện Sách - Bookademy
7 năm trước
[Review Sách] “Black Box Thinking”: Tạo Lập Sự Bền Vững Từ Những Sai Lầm
Matthew Syed là một
cây bút nổi tiếng của tờ The Times. Ông thường xuyên tham gia bình luận trên
truyền hình cũng như trên kênh radio của đài BBC. Cuốn sách Black Box Thinking của ông lọt top
Bestseller theo bình chọn của tờ The Sunday Times. Thông qua Black Box Thinking, Syed giải thích rằng
chúng ta không nên coi thất bại là điều đáng xấu hổ. Thực tế thất bại có thể rất
thú vị, tích cực và thậm chí là một nhân tố tất yếu trong công thức dẫn đến
thành công.
Phát triển là một trong những khía cạnh đáng chú ý của
lịch sử nhân loại. Trong khoảng ba thế kỷ gần đây, nhân loại đã chứng kiến
không ít sự phát triển. Đó là sự trỗi dậy của những doanh nghiệp toàn cầu, những
đội thể thao lớn mạnh, là những bước tiến vượt bậc của khoa học công nghệ, là sự
đổi mới mạnh mẽ của các nền kinh tế. Những bước tiến ấy, dù lớn hay nhỏ, đều tạo
ra sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống nhân loại. Tuy nhiên, dù là trong
lĩnh vực nào đi chăng nữa, con đường đi tới thành công trong một lĩnh vực cụ thể
đều phải trải qua một quy trình tiềm tàng, mà qua đó nhân loại đã học hỏi, đổi
mới và trở nên sáng tạo hơn. Sau nhiều thành công thực tế, loài người đã tự đúc
rút các kinh nghiệm và phát hiện ra được một bí mật rằng sự thành công có một mối
liên kết chặt chẽ với những thất bại. Thực tế, chưa chắc thất bại đã là một biến
cố quá kinh khủng. Thậm chí trong nhiều trường hợp, thất bại còn là một nhân tố
quan trọng để đưa loài người đến với thành công trong một lĩnh vực cụ thể nào
đó của đời sống xã hội.
Luận lý của thất
bại
Thất bại là điều chúng ta đều phải nếm trải nhiều lần.
Đó có thể là một đội bóng thua trận, một màn thể hiện không tốt trong buổi phỏng
vấn hoặc thi trượt một bài kiểm tra. Đôi khi, thất bại có thể vô cùng nghiêm trọng,
ví dụ trong ngành y hoặc ngành hàng không. Đối với những bác sĩ và những người
làm trong các ngành đặt sự an toàn lên hàng đầu, sai một ly có thể gây ra những
hậu quả chết người. Nhưng đã có biết bao nhiêu lần xảy ra những sai lầm trong
ngành y nhưng các cơ quan y tế không chịu nhận trách nhiệm? Đây là một vấn đề
nhức nhối trong xã hội, một vấn đề vô cùng nhạy cảm và chưa bao giờ “nguội” cả!
Bởi vì, dù thế nào đi chăng nữa, tất cả chúng ta đều nhận
thấy rằng thật khó khăn để thừa nhận lỗi lầm của bản thân. Kể cả ở những hoàn cảnh
không đáng kể như một trận đá bóng giao hữu giữa các lớp với nhau, chúng ta
cũng hoàn toàn có thể trở nên cáu bẳn nếu bị thua. Và khi thất bại gắn liền với
những điều quan trọng trong cuộc sống của chúng ta như công việc, vai trò làm
cha mẹ, danh tiếng,..., thì nhìn chung, thất bại đó được nâng lên một mức độ
hoàn toàn khác.
Khi trình độ chuyên môn của ta bị de dọa, ta thường có
xu hướng phòng thủ. Chúng ta không muốn nghĩ mình là người thiếu năng lực và
không phù hợp với công việc. Ta không muốn uy tín của ta bị đồng nghiệp đánh
giá thấp. Đối với những bác sĩ cấp cao có nhiều năm kinh nghiệm được đào tạo và
đã đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp, công khai về những sai lầm họ mắc phải có
thể là một việc rất khó khăn.
Xã hội nói chung có một thái độ vô cùng mâu thuẫn trước thất bại. Kể cả khi đưa ra những lời bao biện cho lỗi lầm của bản thân, chúng ta vẫn có thể nhanh chóng khiển trách lỗi lầm của người khác. Chưa cần biết năng lực thực sự của bản thân mình ở mức độ nào, việc nhận xét người khác luôn là một hành động dễ dàng hơn cả. Một phần bởi chúng ta quá hăng hái buộc tội người khác vì lỗi lầm của họ, để rồi chính chúng ta lại khăng khăng che giấu lỗi lầm của mình.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng ta thường quá lo lắng
về thất bại nên đã đặt ra những mục tiêu mơ hồ để không ai có thể “chĩa mũi nhọn”
vào mình khi không đạt được chúng. Minh chứng cho điều này rất phổ biến trong
cuộc sống. Những lời bao biện nhằm giữ thể diện là một ví dụ tiêu biểu. Con người
luôn có xu hướng che đậy những lỗi lầm của mình không chỉ để bảo vệ bản thân
trước người khác mà còn trước chính mình. Các thử nghiệm đã chứng minh con người
có một khả năng tinh vi giúp xóa sạch những thất bại khỏi trí nhớ giống như
cách mà một nhà biên tập cắt bỏ những đoạn lỗi trong một cuộn phim. Chẳng những
không rút kinh nghiệm từ sai lầm, chúng ta còn loại bỏ nó ra khỏi ký ức. Đó là
quan niệm “Thất bại là một sự tiêu cực, là thứ khiến bản thân phải cảm thấy tự
xấu hổ, là tâm điểm cho sự bàn tán của người khác”. Và thực tế, quan niệm này
đã tồn tại trên 2500 năm trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại.
Phải khẳng định rằng không ai muốn thất bại. Mọi người
đều muốn thành công, cho dù là doanh nghiệp, vận động viên thể thao, chính trị
gia, nhà khoa học hay các bậc làm cha mẹ đi chăng nữa. Tuy nhiên, họ cần phải ý
thức được rằng, thành công chỉ xảy ra khi ta biết thừa nhận sai lầm và học hỏi
từ những sai lầm đó. Đây là một quan niệm hoàn toàn mới về sự thất bại, là cách
mà con người suy nghĩ về việc tạo ra một môi trường “an toàn” để vấp ngã.
Nghịch lý của
thành công
Hãy nhìn vào số lượng các giả thuyết khoa học xuất hiện
và biến mất như: Thuyết phát xạ về thị giác, Định luật khúc xạ của Ptolemy, Giả
thuyết Trái Đất rỗng, Thuyết nhiệt lượng, Thuyết dấu ấn từ Mẹ, và hàng tá thuyết
khác. Một vài trong số chúng, xét về mặt thực tiễn, không khá hơn chiêm tinh học
là mấy, tuy vậy, sự khác biệt chủ yếu giữa chúng và chiêm tinh học nằm ở chỗ
chúng đưa ra những phán đoán có thể kiểm chứng được. Mặc dù bị thay thế bởi học
thuyết có tính chính xác cao hơn, chúng vẫn là một nền tảng quan trọng để có thể
dẫn đến những học thuyết thành công của khoa học hiện nay. Nhưng hãy để ý đến một
điều sau cùng: “Những sinh viên không được học những học thuyết khoa học đã bị
bác bỏ này nữa”. Tại sao vậy? Bởi vì trong khoa học có rất nhiều điều để học mà
không cần tiếp thu tất cả những quan điểm đã bị bác bỏ qua thời gian.
Nhưng không, xu hướng này đang tạo ra một điểm mù. Chỉ xem xét những học thuyết thành công, con người đã vô tình bỏ quên những sai sót đã sinh ra chúng. Điểm mù này không chỉ giới hạn trong khoa học, mà nó là đặc tính cơ bản của thế giới. Nó giải thích phần lớn thái độ lệch lạc của con người trước thất bại. Thành công luôn luôn là phần nổi của tảng băng chìm. Chúng ta tiếp thu những học thuyết thịnh hành, chúng ta bay trên những chiếc phi cơ an toàn được điều khiển bởi các chuyên gia thực thụ, nhưng bên dưới của tảng băng đó – nơi nằm ngoài tầm nhìn của chúng ta, và thường cũng nằm ngoài sự hiểu biết mà ta có – là rất nhiều những thất bại tất yếu.
Sự xung đột của
nhận thức
Những lý luận về thất bại cùng nghịch lý về thành công
đã chỉ ra rằng con người chúng ta luôn sợ sai lầm, sợ thất bại. Nỗi sợ ấy lớn đến
mức chúng ta làm mọi cách để che giấu nó đi, khiến chúng ta hoàn toàn không thể
học hỏi được gì từ nó. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại con người lại có xu hướng
hành động như vậy? Phải chăng có một cơ chế tâm lý học nào đó làm cơ sở cho
hành vi chối bỏ sai sót? Cần phải biết rằng chúng ta sẽ không thể học được gì nếu
cứ tiếp tục chối bỏ đối diện với những sự thật không mấy dễ chịu, nhưng thực tế
đây chính xác là những gì não bộ con người được cài đặt.
Thuật ngữ “Xung đột nhận thức” ra đời như một lời giải
đáp cho sự “lươn lẹo” trong việc lẩn tránh sai lầm của con người. Xung đột nhận
thức miêu tả sức ép từ bên trong chúng ta khi niềm tin bị thách thức bởi các bằng
chứng. Hầu hết mọi người thường cho rằng mình thông minh và lý trí, chúng ta
luôn nghĩ rằng mình có những phán đoán đúng đắn dù cho thực tế chưa chắc đã phải
là như vậy. Nhưng chúng ta tin nó là như vậy, và không muốn bản thân mình bị lừa.
Đó là lý do khi ta bối rối, đặc biệt là trước những vấn đề lớn, sự tôn trọng của
ta bị đe dọa, ta sẽ cảm thấy không thoải mái và sợ hãi. Trong những tình huống
như thế này, ta có hai sự lựa chọn. Thứ nhất là chấp nhận rằng phán đoán ban đầu
của mình là không đúng. Phương án này có một điểm bất lợi rất lớn, đó là nó
mang tính đe dọa rất cao. Nó bắt chúng ta phải thừa nhận rằng mình không thông
minh đến thế. Nó bắt chúng ta phải chấp nhận có lúc mình mắc sai lầm, thậm chí
với cả những vấn đề mà mình đã đặt cược quá nhiều vào đó.
Phương án thứ nhất quá đe dọa và nó dẫn đến sự lựa chọn thứ hai: Chối bỏ. Muốn vậy, ta phải thay đổi chứng cứ. Chắt lọc, vặn vẹo hoặc thậm chí là phớt lờ nó là cách mà con người thường sử dụng để “lươn lẹo” với sự thật về thất bại. Bằng cách này, chúng ta có thể tiếp tục mặc định là mình vẫn luôn đúng, mình lúc nào cũng đúng, mình không bị lừa. Đơn giản bởi vì làm gì có bằng chứng chứng minh cho điều đó.
Hiện tượng xung đột thường được coi là chứng cứ rõ ràng
cho hành vi ngụy biện của tâm lý con người. Ta có thể thấy nực cười khi biết bản
thân có thể đi xa đến mức nào để biện hộ cho phán đoán của bản thân, thậm chí
là tự động lọc bỏ những chứng cứ đối lập với nó. Đây là một trong những thủ thuật
lảng tránh của não bộ con người. Và điều đáng sợ hơn cả chính là hầu như chúng
ta không hề ý thức được rằng mình đang làm thế. Chúng ta thường xuyên bám vào
những câu nói ngụy biện kiểu: “Chỉ sai một lần thôi”, “Đó là trường hợp hi hữu”,
“Đã làm hết sức có thể”,..., chúng ta có thể sẵn sàng dẫn ra hàng loạt số liệu
biện minh cho mình trong khi phớt lờ những con số mang ý nghĩa đối lập, và
chúng ta có thể tìm được những cái cớ mới thậm chí không có thật, để rồi sau đó
bác bỏ nó ngay lập tức nếu nó không phải là cái “phao cứu sinh” cho mình.
Sự bóp méo tri thức
Thực ra, tự bao biện vẫn đem lại một số lợi ích cho bản
thân. Nó giúp con người không phải khổ sở trước mỗi quyết định, không phải hoài
nghi mọi phán đoán. Tuy nhiên, vấn đề là khi nó biến chất và trở thành sự tự
bao biện điên rồ, khi chúng ta tự động bóp méo sự thực, bịa đặt lố lăng để câu
chuyện khớp với đánh giá của mình, lúc đó những lợi ích đem lại không đủ bù đắp
cho những hệ quả mà nó gây ra. Khi đó, với chúng ta, thất bại là một thứ gì đó
rất đáng sợ, là một mối đe dọa thực thụ và ta sẽ không thể học được gì từ nó.
Điều này dẫn tới một vấn đề khiến xã hội quan tâm. Khi
một sai sót nào đó xảy ra trong y học dẫn tới tử vong bệnh nhân, làm sao những
bác sĩ và y tá có thể chịu trách nhiệm trước những đau đớn đó? Làm sao họ có thể
“dày mặt” tới mức che giấu những sai lầm như vậy? Làm sao họ có thể sống với tội
lỗi đó? Sự xung đột nhận thức là câu trả lời, và con đường họ chọn là chối bỏ
thất bại. Nhờ sự chối bỏ, họ có thể sống tiếp với sự thật rằng mình đã làm hại
bệnh nhân. Điều này bảo vệ lòng tự tôn nghề nghiệp và biện minh cho việc che giấu
của họ. Suy cho cùng, tại sao lại phải để lộ ra sai lầm trong khi không có sai
lầm nào cả?
Đây chính là điểm then chốt làm nên sự khác biệt giữa
hành vi dối người và dối mình.
Nói theo một cách khác, đỉnh cao của sự lừa dối không
thuộc về những người cố ý làm việc đó mà thuộc về những người không nhận ra
mình đang che giấu chuyện gì.
Trớ trêu thay, trong kinh doanh, con người càng ở cấp bậc quản lý cao thì càng có xu hướng bảo vệ sự hoàn hảo của mình bằng những cái cớ rất chung chung. Lý do rất rõ ràng. Những người đứng đầu công ty lập ra chiến lược và vì thế họ sẽ thiệt hại nhiều nhất nếu mọi việc đổ bể. Họ sẽ dễ đeo bám ý tưởng rằng chiến lược mình đã đề ra là khôn ngoan kể cả nó có thất bại, và sẽ cố lái mọi bằng chứng phản bác cho hợp với quan điểm này. Bị mâu thuẫn làm mù quáng, họ cũng không rút được kinh nghiệm gì. Đây là một trong những lý do quan trọng khiến các doanh nghiệp thất bại, bởi người lãnh đạo của họ không dám đối mặt với sự thật rằng hoạt động kinh doanh của họ đang gặp phải vấn đề.
Một quan niệm sai lầm thường thấy trong học thuyết về sự
xung đột nhận thức là nguyên nhân của nó đến từ những tác động bên ngoài. Một
người sẽ mất rất nhiều nếu đánh giá sai, vì thế họ sẽ phải bóp méo sự thật. Vấn
đề ở đây là lợi ích của việc sửa chữa sai lầm bị đè bẹp bởi những bất lợi về
danh tiếng nếu chấp nhận nó. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là những động lực
từ bên ngoài mà còn đến từ bên trong. Đó là sự khó khăn cùng cực khi ta phải thừa
nhận sai lầm của mình, thậm chí kể cả khi ta được khuyến khích làm vậy.
Những vòng luẩn quẩn thường được kéo dài dai dẳng khi
con người che đậy lỗi lầm. Chúng cũng không hề suy chuyển khi người ta biến đổi
lỗi lầm của mình hơn là đối đầu trực diện với nó. Tuy nhiên, còn một con đường
thứ ba khiến cho các vòng luẩn quẩn trường tồn với thời gian, đó là qua cách lý
giải sai lệch. Khi đó, ta không chịu thừa nhận thất bại của mình, và suy cho
cùng, làm cách nào có thể học hỏi được từ sai lầm nếu không biết chắc mình có
thật sự thất bại hay không?
Kết
Trong thực tế, chúng ta không thể không thừa nhận rằng những con người thành công, những doanh nghiệp xuất sắc, những đội bóng đẳng cấp,..., có thể đứng trên đỉnh vinh quang đều là những chủ thể ham học hỏi từ thất bại. Bởi vậy, nếu cứ che giấu thất bại, che giấu sai lầm thì chúng ta đã thành công, nhưng là thành công trong việc phá hoại những cơ hội quý giá để học tập. Lừa dối người ngoài là một điều không tốt, nhưng tự lừa dối bản thân là một hành động còn tệ hơn nhiều. Tự đánh lừa bản thân sẽ loại bỏ tất cả cơ hội học tập. Sao một người có thể rút kinh nghiệm từ thất bại nếu họ cứ tự thuyết phục bản thân mình rằng họ không thất bại bằng đủ phương thức tinh vi như bao biện, bóp méo sự thật, và cả kho công cụ tâm lý để giảm bớt sự mâu thuẫn?
“Vạn sự khởi đầu nan” là một câu nói rất đúng và đủ, nó mô tả chi
tiết mối quan hệ mật thiết giữa thành công và thất bại. Những bước tiến sáng tạo
bao giờ cũng bắt đầu với hàng loạt khó khăn. Và cuốn sách Black Box Thinking đã chỉ ra rằng những phát kiến thực sự nằm trong
việc hiểu được bản chất của thất bại và từ đó học hỏi để thành công. Tại sao lại
là Black Box (Hộp đen)? Một chiếc máy bay gặp tai nạn sẽ gây điêu đứng cho hãng
hàng không chủ quản, và nếu hãng hàng không ấy không muốn đi tới bờ vực của sự
thất bại thì tốt nhất là hãy học hỏi từ sai lầm của chuyến bay để nó không còn
xảy ra trong tương lai. Hãy học hỏi từ thất bại, tìm nguyên nhân của thất bại ấy,
và việc đầu tiên cần phải làm chính là “Mổ hộp đen”.
Tác giả: DO
______________
Theo dõi fanpage của Bookademy để
cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy
Đăng
ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv
----------------------------
Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership
2,366 lượt xem