Đóng góp ý kiến và báo lỗi phiên bản mới tại đây

[ Tóm Tắt & Review Sách ] "Sóng Ở Đáy Sông" - Những Mảnh Đời Nghiệt Ngã

“Một mảng màu tối, nhưng có thể nhìn thấy cuối đường hầm bừng lên một vệt sáng. Và người đọc được quyền bước ra vùng sáng rỡ, nơi con người ta trở về với nguyên bản thiện lương của mình”. Và đó là lời nhận xét của nhà văn Võ Thị Xuân Hà khi bình phẩm về cuốn tiểu thuyết Sóng ở đáy sông, một tác phẩm thành công vang dội của nhà văn Lê Lựu. Cũng bởi lẽ nó là một câu chuyện – là chuyện thấm đẫm đời người với biết bao giá trị mà cuốn tiểu thuyết mãi dư âm lại: gia đình, lẽ sống, nhân quả ở đời.

I/ Tác giả, tác phẩm

Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942, mất ngày 9 tháng 11 năm 2022. Ông sinh ra tại một vùng quê nghèo thuộc xã Tân Châu tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình có 8 người con, nhưng năm anh chị em của ông đều mất sớm. Năm 10 tuổi, Lê Lựu đã sớm có ước mơ trở thành nhà báo, nhà văn. Năm 17 tuổi, ông nhập ngũ và nhờ đó đã tôi luyện nên một tài năng văn chương để đời. 10 năm trước khi mất, ông phải trải qua những tháng ngày "bữa thuốc nhiều hơn bữa cơm" với hàng tá thứ bệnh: Tai biến mạch máu não, tiểu đường, bệnh tim,..


(Trích theo báo Dân trí) - "Nhà văn Lê Lựu đã khuất bóng, bỏ lại "Thời xa vắng", bỏ lại một đời khắc khổ như những trang văn ông từng viết, và bỏ lại... những niềm tiếc thương đau đáu"

Lê Lựu là thành viên của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Thời kỳ đầu sự nghiệp, ông có nhiều sáng tác như truyện ngắn "Người cầm súng" (1970), tiểu thuyết "Mở rừng" (1976) - được xem là tác phẩm nổi bật của dòng văn học thời kỳ này. Ông từng đoạt giải nhì báo Văn nghệ năm 1968 cho truyện ngắn "Người cầm súng", giải A Hội nhà văn Việt Nam 1990 cho tiểu thuyết "Thời xa vắng". Và với bộ ba tiểu thuyết khẳng định tên tuổi của ông gồm "Thời xa vắng" (1986), "Chuyện làng Cuội" (1991), "Sóng ở đáy sông" (1994) cũng đủ sức khiến Lê Lựu cùng với những tác phẩm của ông sống mãi với thời đại.

Sóng ở đáy sông là cuốn tiểu viết viết năm 1994 và đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên vào năm 2000. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh vào những năm 1960 ở Hải Phòng. Sóng ở đáy sông xoay quanh cuộc đời của Phạm Quang Núi. Núi là con của mẹ Hiền – một người vợ lẻ, sống cùng với ông Đại- một người cha có tiếng gia giáo, nghiêm khắc khắp một vùng. Núi cùng người mẹ Hiền và mấy đứa em luôn phải sống trong sự bất công, tủi nhục. Dành đằng đẳng hơn chục năm trời để cung phụng, hầu hạ nhà ông Đại, sống dưới cái mác là “những đứa con loại hai” thì đời Núi vẫn chưa thôi đủ nghiệt ngã. Bước ngoặt xảy ra khi mẹ Hiền mất, Núi từ một cậu học sinh ngoan dần bước vào con đường vào tù ra tội. Nhưng cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của mọi người, nhờ Hiền và hai đứa con thì Núi cũng đã hoàn lương, sống cuộc đời đúng nghĩa mà anh vốn có.

II/ Tác phẩm

1/ Cuộc đời lầm lỡ của Núi và một khoảng cách không thể kết nối lại gần với những gì được gọi là chính thống

 Là một người gia giáo, nên ông Đại có cách dạy con khắt khe đến nỗi “cay nghiệt”. Ông luôn bắt ép những đứa con của mình rằng phải học, học sao cho thật giỏi để không ảnh hưởng đến cái thanh danh đáng giá “ngàn vàng” của ông. Ông Đại chính là đại diện cho hậu tư tưởng phong kiến nặng nề lúc bấy giờ: đàn bà chỉ được lo việc bếp núc, chồng gọi phải vâng dạ lễ phép, con cái thì phải nghe lời răm rắp không được cãi lại ông dù chỉ nửa lời. Lúc thì ông phạt đứng quay vào tường, nếu ông nhớ thì cuối buổi còn được ăn hoặc là cả ngày hôm đó ông quên thì phải nhịn. Dù luôn để phép tắc, danh dự lên hàng đầu nhưng ông Đại lại không làm được những gì mà ông đã dạy cho các con. Chính anh em nhà Núi – “sản phẩm” của ông Đại trong lúc mợ cả đang mang bầu, ông Đại ăn nằm với cô người ở (chính là mẹ của Núi). Về sau bà cả chết, ông mới cho mẹ con Núi về ở, đích cũng chỉ để có người cung phụng, hầu hạ như một giúp việc không công. Một người chồng bạc bẽo, tẻ nhạt và ông xem mẹ con Núi như một sự tạm bợ không hơn không kém. Sống dưới ngôi nhà đầy rẫy phép tắc kỉ cương ấy, Núi lại vô cùng lễ phép. Cậu học giỏi, thông minh và vô cùng sáng dạ. Núi luôn là học sinh giỏi và còn được người nước ngoài khen vì trả lại cho ông ta chiếc đồng hồ sang trọng đã vô tình đánh rơi.

Và đó là Núi...của những ngày xưa. Năm 17 tuổi, như một mốc thời gian, đánh dấu cho những ngày tháng lầm lỗi của Núi.

“Hắn chỉ biết móc túi, ăn trộm, tranh gái...”

Năm ấy mẹ Hiền mất vì khi sinh mất máu quá nhiều cùng với em bé thứ năm chưa kịp chào đời. Thế là anh em Núi mất mẹ. Một người đàn bà tần tảo, cả đời chỉ biết nói vâng rồi lại dạ. Cung phụng, hầu hạ cả đời cho ông Đại mà mãi chẳng bao giờ được sung sướng, chưa bao giờ được ông Đại xem là vợ. Đôi lúc dì thèm được như gã vợ chồng đầu ngõ, thèm được chồng đánh vì khi ấy người ta còn biết mình có chồng. Mẹ Hiền cả đời chỉ biết cúi mặt nghe lời ông Đại, không bao giờ hó hé nửa lời. Còn ông Đại, một người chồng bạc bẽo và ghẻ lạnh. Ông làm đám tang của mẹ Hiền một cách cho có lệ và kể lể với bà con chòm xóm rằng mình đã làm tròn trách nhiệm của một người chồng ra làm sao. Những người xung quanh chỉ biết hút thuốc, thở dài sau những lần mà ông Đại dứt câu. Chỉ còn lại Núi cùng với hai đứa em là Sông và Biển. Thời chiến tranh loạn lạc, thức ăn thì được nhà nước phân phát theo tem phiếu, mấy anh em nhà Núi đang tuổi ăn tuổi lớn thì số gạo ấy chẳng thấm tháp vào đâu. Còn tiền đi học cho Núi, cho các em. Trái ngược với sự thiếu thốn đó, ông Đại làm ngơ trước những lời than vãn vì đói kém của anh em nhà Núi, lấy lý do phải lo cho anh Ý- con vợ cả - học tập nên gửi lại anh em Núi cho cậu mợ Uyên cùng bà con trong xóm chăm lo, dạy dỗ.

Thấy cậu mợ cũng khó khăn, thiếu trước hụt sau thế là Núi nói dối cậu mợ Uyên đi làm đến nỗi chai sạm cả da kiếm tiền lo cho các em. Và lần đầu tiên Núi ta phạm tội. Một lỗi lầm vô tình trong lúc làm việc, Núi không hề hay biết rằng mình đã và đang dính líu đến hai tên đào ngũ, chuyên ăn cắp ở các ga từ Bắc Giang đến Hà Nội. Vì có liên quan nên các chiến sĩ công an đã mời cha hắn đến xác nhận. Vỡ lẽ ra bao điều từ việc Núi đã bỏ học, nói dối người lớn, bây giờ còn phạm tội, đời ông ghét nhất đứa nào lừa lộc ông. Thế nên ông Đại thẳng tay từ Núi, để lại anh công an ái ngại cùng với Núi cứ mãi đứng đấy, khoanh tay hối lỗi vì một sự trót dại tai hại.

“ Vào một đêm mưa rào, bố đuổi hắn ra khỏi nhà trong lúc cột điện và cây cối đổ ầm ầm”.

Ông Đại nói là làm. Ông tuyên bố chấm dứt quan hệ cha con với Núi dù cho anh có tha thiết cầu xin như thế nào thì ông chẳng nghe lấy một câu. Ngày ấy, một đêm mưa gió, Núi lầm lũi bước ra khỏi nhà – cái nhà đã hằn sâu trong kí ức anh những ngày còn bé tí và chẳng biết sẽ đi đâu, về đâu. Từ đấy hắn chính thức sống một cuộc đời lang thang và nhấm nháp cái ý định móc túi. Bắt đầu từ những thứ nhỏ nhặt nhất: chiếc bánh mì, đôi dép nhựa, áo mưa bộ đội, mũ cối đến ba lô con cóc. Rồi hắn cũng móc tiền và được lãnh ngay cho bản án bảy tháng tù.

Năm lần vào tù ra tội. Nhiều đến độ hắn quen giờ giấc sinh hoạt ở nhà tù còn hơn là ở nhà. Nếu nói hoàn cảnh đưa đẩy, chắc chỉ chiếm có một. Còn phần hắn phải dành về đến mười. Đời hắn đâu phải gặp ít người tốt. Biết bao nhiêu lần có thể hoàn lương nhưng hắn lại buông một câu mòn cũ, vô trách nhiệm:

“ Ngựa quen đường cũ. Biết làm thế nào”

 2/ Máu mủ thì suốt đời vẫn là máu mủ

“ Về khoản này thì nó hơn ông bố của nó rồi”

Đó là lời nói mà cha của viện Kiểm soát quân dành cho Núi. Trong một vài khoảnh khắc hiếm hoi, ta thấy được sự quan tâm của ông Đại dành cho những đứa con của mình. Anh Ý luôn được cậu cưng chiều từ nhỏ và ông dành tất cả kì vọng lên anh ấy. Biển hiền lành ông luôn thương, lúc nhỏ Núi chăm học thì ông thưởng. Chỉ là cái mong muốn giữ gìn thanh danh của ông Đại nó cao quá, và ông ghét những người làm ảnh hưởng đến thanh danh ấy. Thế nên ông thẳng tay từ mặt Núi khi biết hắn nói dối cậu, bỏ học, phạm tội (tội lỗi do vô tình phạm phải).

Về phần Núi. Dù là một tên thô lỗ, máu mặt nhưng hắn lại cực kì thương con. Có lẽ bởi chịu cay nghiệt từ nhỏ, thành ra hắn hiểu và một lòng không muốn để con mình chịu khổ. Ngày Mai - người đàn bà Núi đã gặp rồi kết duyên thành vợ chồng – đã bỏ đi theo tên người tình của Mai. Tôi vẫn còn nhớ mãi những dòng chữ, miêu tả một cách chua xót về Núi trong một đêm mưa gió ầm ĩ, ôm con vào lòng đi tìm Mai trở về.

“Nó ngủ trong tiếng gọi như ru của bố nó, nho nhỏ vừa đủ để cho cả người trong thuyền nghe:

-Mai, Mai ơi. Anh bế con đi tìm em đây. Mai ơi, em có nghe thấy anh gọi em về với con không Mai ơi. Em cho con bú hộ anh. Anh không nuôi được con. Con khát sữa không chịu được Mai ơi”

Hay sự vui sướng của Núi khi nhận được lá thư từ đứa con đầu lòng của mình - Hà Văn Đồi. Núi đã đọc cho tất thẩy mọi người trong khu trại giam nghe một cách tường tận, rõ ràng thể hiện cho sự hãnh diện về đứa con đã trưởng thành của mình. Nhờ đấy, Núi ngày một cố gắng hơn để được ra tù, trở về đoàn tụ với các con.

3/ Sự thay đổi chưa bao giờ là muộn màng.

Năm 41 tuổi, khi tóc hắn đã điểm sợi bạc, hắn vẫn ở tù. Nhưng lần ở tù này đặc biệt hơn cả. Núi chuyên tâm học nghề thợ mộc một cách rất có trách nhiệm. Như sự trách nhiệm với bản thân, những người đã luôn giúp đỡ hắn, và cả những đứa con thơ của Núi. Cũng khoảng thời gian này, Núi được gặp lại Hiền cùng đứa con đánh dấu cho mối tình đầu. Hiền là mối tình đầu của Núi trong khoảng thời gian gia đình hắn sơ tán về quê ngoại. Hai người đã dành cho nhau tất cả những gì mình có. Rồi Hiền thông báo đã có mang và ý định sẽ hỏi gia đình hai bên về chuyện cưới xin. Trong một lần lân la hỏi thăm, Núi bàng hoàng biết rằng hắn và Hiền là cô cháu bảy đời. Dù đã khắng định rằng pháp luật đã không còn cấm nữa nhưng văn hóa làng xã không cho phép điều đó xảy ra. Người ta xem trọng danh dự và tôn ti vô cùng. “Phép vua còn thua lệ làng”. Nếu Núi và Hiền cưới nhau, người đời sẽ cười chê cười cả họ và cả gia đình, hay thậm chí cả làng của họ sẽ mang tiếng xấu suốt đời. Thế là Hiền cùng đứa con đang còn mang trong bụng, bỏ làng ra đi mặc cho Núi có thăm hỏi tiềm kiếm như thế nào. Chẳng ai biết được rằng nhiều năm sau, Núi và mối tình đầu của mình lại có cuộc hội ngộ qua song sắt của nhà tù. Có các ông bạn tù cùng tiến, có chiến sĩ quan tâm, Hiền và hai đứa con. Tất cả như một sự xúc tác mãnh liệt cứu vớt chuỗi tháng ngày lầm lỡ của Núi, để hắn chính thức hoàn lương, làm lại cuộc đời.

Vốn lấy từ một câu chuyện có thật về một người tù mà tác giả có dịp được tiếp xúc vào những năm 1992. Dựa trên những lời kể của anh, Lê Lựu đã tạo ra một câu chuyện mang cảm xúc chân thật đến như thế. Chỉ tiếc rằng, khi anh tù ấy trở về lại không được như Núi nhà ta. Anh bị hàng xóm dị nghị, cảnh giác. Vậy tại sao Lê Lựu lại không giữ lấy kết cục như anh tù ấy?

Có lẽ, thứ Lê Lựu muốn lưu lại ở tác phẩm của mình là một niềm tin. Như nhà văn Võ Thị Xuân Hà từng nói “ Một mảng màu tối, nhưng có thể nhìn thấy cuối đường hầm bừng lên một vệt sáng. Nơi con người ta trở về với nguyên bản thiện lương của mình”. Niềm tin và sự giác ngộ như ngọn đuốc để dẫn lối, soi sáng cho những bước đường lầm lỡ mà làm lại cuộc đời. Sẽ ra sao nếu con người ta sống mà không có lấy một niềm khao khát sống, người ta chỉ muốn tồn tại cho qua ngày, chấp nhận phó mặc mình cho số phận định đoạt mà không có bất kì ý muốn thay đổi nào. Đặc biệt là những mảnh đời đã “lầm lỡ”. Nếu người ta thấy được trong cuộc đời tối tăm của mình, một vệt sáng, có lẽ chính thứ đó sẽ làm thay đổi cuộc đời họ, thay đổi được số phận tăm tối mà bản thân đã lỡ bước vào. Bởi:

“Ngựa chỉ quen đường cũ khi không có đường mới thôi. Chắc chắn sẽ không có con ngựa nào đi lại con đường cũ mà nó thấy khủng khiếp quá, ghê rợn quá ,đầy trắc trở và nguy hiểm, mà trước mặt nó lại có một con đường mới dễ dàng hơn “

4/ Cuốn sách là những trang tái hiện lại một thời xưa cũ

Thời tem phiếu – bao cấp, một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế các nước thuộc Khối xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó. Nói dễ hiểu ấy là thời mà người ta dùng tem phiếu để đổi lấy gạo, thức ăn. Lấy bối cảnh sau khi nước ta bắt Pháp kí hiệp định Giơ-ne-vơ trả lại nền độc lập, chủ quyền cho dân tộc. Một đất nước đổi mới. Và lúc ấy người ta xem trọng cái chữ hơn tất cả. Như khi Núi đi xa về thăm cậu mợ Uyên, dù là một tay buôn rất “khét tiếng”, dư giả nhưng vẫn phải nói dối với các cụ trong xóm rằng mình là cán bộ. Ngày ấy, người ta ngưỡng mộ thành thị như khi anh em nhà Núi ở nhà cậu Đại thì bị xem là đám nhà quê, về quê thì lại được xem là người thành phố, được người đời nhìn bằng tát cả sự ngưỡng mộ mà họ có. Người ta khen anh em Núi tắng trẻo, học giỏi, lại không nói tục, có anh Núi về thì đám trẻ con ở cái làng này ít nói bậy hẳn...

Câu chữ của Lê Lựu, giản dị, mộc mạc mà có lúc chân thực đến mức “nhói lòng”. Đó là cuộc đời khổ cực của mẹ Hiền - bị chồng xem không khác gì một con ở, cả đời mẹ sống vì sắc mặt ông Đại. Ngày nào ông vui thì nhà yên ổn, ông bực tức thì lại trút lên những đứa con của chị. Đặc biệt là Núi. Ngày nào Núi bị phạt là ngày đấy mẹ nhai cơm như nhai cỏ, thức ăn mẹ chẳng còn buồn chạm. Người phụ nữ cả đười chỉ được nói ở xó bếp, ở buồng chuối, đã chết cùng với đứa con cuối cùng của chị. Đó là những câu văn chân thực lột tả cuộc đời đầy cơ cực, gian truân và trắc trở của Núi. Mất mẹ, cha thì tàn nhẫn, cuộc đời Núi và những mối tình cũng chẳng khá hơn là bao.

“Chuyện nhà chưa tỏ mà ngõ đã thông” hay sự quan tâm, góp ý một cách rất có trách nhiệm của làng xóm với nhau. “Thời ấy, dường như con người sinh ra là để lo cho nhau”. Ai khó khăn, cả làng cùng nhau giúp. Ai cần góp ý, cả làng cùng nhau góp ý, cùng nhau mà sửa, cùng nhau mà tiến bộ. Con người lúc ấy quý xóm làng như chính họ hàng ruột thịt của mình vậy. Cả ngoài xã hội đầy trắc trở kia, vẫn có những người sẵn sàng giúp đỡ người khó khăn khác. Như bà tổ trưởng tổ dân phố biết bao lần giúp đỡ, cưu mang Núi. Hay người đàn ông viết văn đã mua cho Núi một tô phở nóng hổi, mời Núi cùng về nhà ăn Tất Niên. Cả anh công an đã cưu mang hai bố con Núi trong cái đêm mưa gió bão bùng anh đã bế con đi tìm Mây. Các bác trong xóm biết chuyện, người tới cho dăm ba đồng bạc, người cho tả, khăn, thức ăn bọc gọn ghẽ trong chiếc lá chuối. Những thứ tưởng chừng giản dị như thế thôi nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái tim Núi, chiếu “giọt sáng” le lói vào cuộc đời “đen kịt” của anh. Và cả khi ở trong nhà tù, tình cảm giữa những con người với nhau vẫn được bộc thể hiện một cách mộc mạc, tự nhiên đến lạ.

III/ Kết

 “Nếu người ta biết rằng dưới đáy sông lấp vẫn có hai dòng nước chảy ra cửa sông Cấm.

Sự lên, xuống của con nước, sự rào rạt của sóng vỗ cũng từ đáy sông mà tạo nên.

Nếu người ta biết là lấp sông vẫn còn nước chảy, còn sống vỗ.

Thì hàng trăm năm trước người ta lấp sông làm gì”

Một đoạn kết thúc của cuốn tiểu thuyết, khép lại cuộc đời của những mảnh đời khốn khổ và một thời kì xưa cũ. “ Sự lên, xuống” của dòng nước như thể hiện cho bao biến cố mà con người ta phải trải qua. Và dù có thay đổi ra sao, máu mủ vẫn suốt đời là máu mủ. Tình cảm gia đình thiêng liêng vẫn sẽ là nơi để con người ta quay về. Ngòi bút của Lê Lựu bao giờ cũng mộc mạc, giản dị và mang đầy tính hiện thực. Không phải là một câu chuyện vẩn vơ mà là chuyện khiến con người ta phải suy ngẫm, xem xét lại. Có cái nhìn cụ thể về một giai đoạn biến động đã qua đi và vẫn để mãi những giá trị cho đời sau.


Tóm tắt bởi : Ngọc Anh - Bookademy

Hình ảnh: Ngọc Anh - Bookademy 

 --------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

 

 

 

----------------------------

Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership

158 lượt xem

lh-fulllh-x