Đóng góp ý kiến và báo lỗi phiên bản mới tại đây

[ToMo] Hội Chứng Ám Ảnh Déjà Vu - Liệu Đâu Mới Là Thực, Đâu Mới Là Ảo? (Phần 2)

(phần 1)

Cuốn sách “The Psychopathology of Everyday Life” (Tạm dịch: Hiện tượng Tâm thần học trong cuộc sống hằng ngày) của Sigmund Freud được xuất bản năm 1901, là một trong những cuốn sách được biết đến nhiều nhất bởi độc giả về việc khám phá bản chất của ngoại hành vi (Freudian slip), và nó cũng thảo luận về những khiếm khuyết khác trong quá trình hồi tưởng. Cuốn sách ghi lại trải nghiệm của một bệnh nhân nữ lần đầu tiên ghé thăm nhà bạn, người phụ nữ này có cảm giác rằng cô ấy đã đến thăm trước đó và khẳng định rằng cô biết từng phòng kế tiếp trong nhà trước khi cô đi qua.

Những gì bệnh nhân của Freud trải qua, được mô tả trong khái niệm ‘déjà visité’- đã đến thăm rồi. Freud cho rằng cảm giác ‘déjà visité’ là biểu hiện của một ảo tưởng bị kìm nén và chỉ xuất hiện như một ham muốn trong vô thức khi người bệnh gặp phải một tình huống tương tự.

Mặc dù Freud có giả định rằng nguyên nhân sự xuất hiện của ‘déjà vu’ của nữ bệnh nhân kia có thể là do các giai đoạn tình dục, khởi nguồn từ bộ phận sinh dục (fixation on the mother’s genitals), nhưng không vì vậy mà lý thuyết của Freud bị bác bỏ. Một điểm đặc biệt là “một người có thể kiên quyết khẳng định rằng họ đã từng ở đó.", Freud viết.

Vào năm 1983, Bác sĩ Tâm thần Vernon Neppe - người Nam Phi, đưa ra định nghĩa ‘déjà vu’ và đã được giới khoa học chấp nhận. ‘Déjà vu’ là “bất kỳ một ấn tượng quen thuộc xuất phát từ ý thức chủ quan nhưng không tìm thấy sự tương thích thời gian giữa trải nghiệm thực tế và quá khứ không rõ ràng”. Ông cũng đã xác định được 20 dạng riêng biệt của trải nghiệm ‘déjà’. Phát hiện của Neppe cho thấy không phải tất cả trải nghiệm ‘déjà’ đều liên quan đến việc ‘đã nhìn thấy’: một trong những bệnh nhân của Chris Moulin là một người đàn ông bị mù bẩm sinh nhưng bệnh nhân này khẳng định đã trải qua ‘déjà vu’, điều này đúng với những mô tả của Neppe về trải nghiệm ‘déjà’ bao gồm ‘déjà senti’ (đã cảm thấy) và ‘déjà entendu’ (đã nghe qua).

Sự chẩn đoán của Freud về ‘déjà vu’ thì thiên về hiện tượng tâm lý thuần túy - hơn là do lỗi thần kinh gây ra - đã làm cho một số giải thích về trải nghiệm ‘déjà’ trở nên huyền bí phi lý.

Năm 1991, ở thị trấn Gallup thuộc Đông Bắc Mexico diễn ra một cuộc khảo sát ý kiến về ‘déjà vu’, kết quả cho thấy mọi người xem hiện tượng này có liên quan đến chiêm tinh học, hoạt động siêu linh và ma quái. Nhiều người xem ‘déjà vu’ là hiện tượng nằm ngoài trải nghiệm nhận thức hàng ngày của họ, còn với những người lập dị, họ lại khẳng định ‘déjà vu’ là bằng chứng không thể chối cãi về khả năng ngoại cảm, do bị người ngoài hành tinh bắt cóc, tâm linh-chuyển động (psychokinesis) hoặc tiền kiếp.

Tôi cảm thấy nghi ngờ về lời giải thích này, nhưng sự xuất hiện của những lý thuyết ngoài lề này cho thấy ‘déjà vu’ không nhận được nhiều sự chú ý từ khoa học chính thống. Chỉ đến thời điểm hiện tại, gần 150 năm sau khi Émile Boirac phát minh ra cụm từ ‘déjà vu’, các nhà nghiên cứu như Chris Moulin mới bắt đầu thực sự hiểu ra điều gì đã gây ra lỗi hệ thống - được nhà Thần kinh học Read Montague gọi là “máy tính bị nhúng nước” (wet computer) của bộ não.

Hồi hải mã là một bộ phận có vẻ ngoài đẹp đẽ. Bộ não của động vật có vú chứa hai hồi hải mã, nằm đối xứng nhau ở đáy não. 'Hippocampus' là từ Hy Lạp cổ đại để chỉ cá ngựa và vẻ ngoài của hồi hải mã có sự tương đồng với cách mà chiếc đuôi mỏng manh của chú cá ngựa tự cuộn vào để chạm vào chiếc mõm dài của chú. Chỉ trong khoảng 40 năm trở lại đây, chúng ta mới thực sự bắt đầu hiểu được những công dụng của cấu trúc mỏng manh này.

Các nhà khoa học đã từng nghĩ rằng, tất cả hồi ức đều cùng được sắp xếp ngăn nắp ở một nơi, giống như tài liệu trong tủ đựng hồ sơ. Sự đồng thuận này đã bị đảo lộn vào đầu những năm 1970 khi Giáo sư Endel Tulving - nhà Thần kinh học Nhận thức (cognitive neuroscientist) đề xuất lý thuyết rằng tất cả hồi ức đều được phân chia thành hai nhóm riêng biệt.

Nhóm thứ nhất được Tulving gọi là nhóm “nhớ ngữ nghĩa” (semantic memory) - đề cập đến những sự kiện chung không có ảnh hưởng lớn đến tính cách, kinh nghiệm cá nhân. Trong khi đó, nhóm thứ hai "nhớ tình tiết" (episodic memories) bao gồm những hồi ức về các sự kiện hoặc kinh nghiệm trong cuộc sống. Tulving có chia sẻ câu chuyện của bản thân để lấy ví dụ cho hai nhóm. Đó là, khi ông được 11 tuổi thì có đến thăm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London trên đường đến trường. Sự kiện này là "nhớ tình tiết", còn ‘Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London’ là “nhớ ngữ nghĩa”.

Được hỗ trợ bởi những tiến bộ trong chụp ảnh hoạt động thần kinh (neuroimaging), Tulving phát hiện ra rằng nhóm thứ hai được tạo thành bởi những mẩu thông tin nhỏ ở các thời điểm khác nhau - đã được ghi nhớ trong bộ não, và sau đó được tập hợp lại thành một tổng thể mạch lạc. Tulving xem quá trình này giống như việc ‘thực sự’ trải qua các hoạt động trong "nhớ tình tiết" ‘một lần nữa’. “Nhớ lại”, ông nói vào năm 1983, “là du hành thời gian về mặt tinh thần, một kiểu trải nghiệm lại điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ.”

Phần lớn các tín hiệu hồi ức (memory signals) phát sinh từ hồi hải mã và khu vực xung quanh nó, điều đó cho thấy rằng hồi hải mã là ‘cô thủ thư’ của bộ não - chịu trách nhiệm tiếp nhận thông tin đã được xử lý bởi thùy Thái dương (temporal lobe), sau đó sắp xếp, lập chỉ mục và lưu trữ các tín hiệu hồi ức thành "nhớ tình tiết". Cũng giống như cô thủ thư có thể xếp đặt sách theo chủ đề hoặc tác giả, hồi hải mã cũng xác định các đặc điểm chung giữa các hồi ức. Nó có thể sử dụng phép loại suy hoặc sự quen thuộc, chẳng hạn như khi nó ‘nhóm’ tất cả hồi ức về những chuyến đi thăm bảo tàng lại với nhau. Sau đó, những điểm tương đồng này sẽ được sử dụng để liên kết các phần cấu thành của "nhớ tình tiết" với nhau để tiện cho việc ‘gợi nhớ lại’ trong tương lai.

Không phải ngẫu nhiên mà cơn co giật của những người bị động kinh (epilepsy) có xu hướng kích hoạt ‘déjà vu’, bởi các cơn động kinh bắt nguồn từ phần não có liên quan nhiều nhất đến trí nhớ. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng chứng động kinh thùy Thái dương ảnh hưởng đến "nhớ tình tiết" nhiều hơn “nhớ ngữ nghĩa”. Bệnh động kinh của tôi bắt nguồn từ thùy thái dương, một vùng của vỏ não nằm sau tai và chịu trách nhiệm chính trong việc xử lý thông tin cảm giác đến.

Trong cuốn sách ‘Trải nghiệm Déjà Vu’ (The Déjà Vu Experience ) của mình, Giáo sư Alan S Brown đưa ra 30 cách giải thích khác nhau về ‘déjà vu’. Theo ông, bất kỳ một nhân tố nào cũng có thể kích hoạt trải nghiệm ‘déjà’. Chứng rối loạn chức năng sinh học (biological dysfunction) cũng như chứng động kinh, căng thẳng hay mệt mỏi, chúng đều có thể gây ra chứng ‘déjà vu’.

Những trải nghiệm về ‘déjà vu’ của tôi bắt đầu trong giai đoạn hồi phục sau khi phẫu thuật não, một khoảng thời gian dài gần như hoàn toàn ở trong nhà, di chuyển ra vào trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chủ yếu bao gồm việc dùng thuốc giảm đau (opiates), ngủ và xem những bộ phim xưa cũ. Trạng thái hồi phục nửa vời này làm tôi dễ bị trải nghiệm ‘déjà’ hơn, bởi vì lúc đó tôi hay bị mệt mỏi khi tiếp nhận quá nhiều thông tin cảm giác (sensory information) hay là những cơn mộng mị khi tôi đang nằm nghỉ. Và những hiện tượng như vậy rõ ràng là một điều bất thường.

Được đề xuất lần đầu tiên vào những năm 1930 bởi Tiến sĩ Edward Bradford Titchener, lý thuyết nhận thức bị chia rẽ (divided perception theory) - đề cập đến những thời điểm não bộ không dành toàn bộ sự chú ý đến môi trường xung quanh. Ông đã sử dụng ví dụ về một người sắp băng qua một con phố đông đúc trước khi bị phân tâm bởi sản phẩm được trưng bày sau cửa kính của một cửa hàng. “Khi bạn băng qua đường,” Titchener viết, “bạn nghĩ: ‘Tại sao, mình lại băng qua đường này nhỉ?’; hệ thống thần kinh (nervous system) của bạn đã cắt đứt hai giai đoạn của một trải nghiệm duy nhất, và giai đoạn sau xuất hiện như một sự lặp lại của giai đoạn trước đó."

Trong thế kỷ trước, ý tưởng này đã được phần đông giới khoa học chấp nhận như một nguyên nhân kích hoạt ‘déjà vu’. Một lời giải thích phổ biến khác đến từ một bác sĩ làm việc tại Bệnh viện Cựu chiến binh Boston. Năm 1963, Robert Efron cho rằng ‘déjà vu’ có thể do một loại lỗi xử lý gây ra: ông tin rằng bộ não chịu trách nhiệm đồng bộ các sự kiện thông qua thùy Thái dương trước khi thêm dấu thời gian (timestamp) vào chúng để xác định thời điểm chúng xảy ra.

Efron nhận thấy ‘déjà vu’ là kết quả của sự chậm trễ giữa việc nhìn thấy và thêm dấu thời gian đó: nếu quá trình diễn ra quá lâu, bộ não sẽ nghĩ rằng đây là một sự kiện đã xảy ra.

Nhưng Alan Brown và Chris Moulin lại cho rằng nguyên nhân gây ra ‘déjà vu’ là do hồi Hải mã lập chỉ mục hồi ức bằng cách tham chiếu chéo (cross-referencing) chúng theo mức độ quen thuộc.

Brown nói: “Niềm tin của tôi là, trải nghiệm ‘déjà vu’ đến từ một cơn động kinh thì được kích hoạt bởi hoạt động tự phát (spontaneous activity) trong vùng não xử lý các đánh giá về mức độ quen thuộc”. Ông nói, có thể là ở khu vực xung quanh hồi Hải mã, và rất có thể là ở phía bên phải của não. “Điểm chính xác mà tôi có một cái lỗ hình quả chanh”.

Tại Khoa Tâm lý & Khoa học Thần kinh của Đại học Duke (Duke University’s Department of Psychology & Neuroscience), Alan Brown và Elizabeth Marsh đã nghĩ ra một thí nghiệm để kiểm tra lý thuyết của Brown rằng trải nghiệm ‘déjà vu’ là do lỗi khi hồi Hải mã thực hiện công việc nhóm các ký ức. Khi bắt đầu thử nghiệm, sinh viên từ các trường đại học Marsh’s và Brown’s (Đại học Duke và Đại học Southern Methodist ở Dallas) đã được xem sơ qua các bức ảnh về các địa điểm - phòng ký túc xá, thư viện, lớp học - trong hai cơ sở.

Một tuần sau, các sinh viên được cho xem những bức ảnh tương tự, lần này là những bức ảnh mới được chèn vào bộ ảnh lần trước. Khi được hỏi liệu họ đã đến thăm tất cả các địa điểm trong tất cả các bức ảnh trông bộ ảnh chưa, thì một bộ phận sinh viên trả lời là có - ngay cả khi bức ảnh được đề cập là của trường đối thủ. Nhiều tòa nhà đại học trông giống nhau, vì vậy bằng cách gieo nhầm lẫn về địa điểm – nơi mà sinh viên đã đến thăm, Brown và Marsh có thể kết luận rằng chỉ cần một yếu tố của hình ảnh hoặc trải nghiệm là đủ để não bộ gợi ra ký ức.

Chris Moulin và đồng nghiệp tại Đại học Leeds - Tiến sĩ Akira O'Connor, đã tái tạo ‘déjà vu’ trong phòng thí nghiệm vào năm 2006. Mục đích của họ là tìm hiểu thêm về quá trình gợi lại hồi ức bằng cách khám phá sự khác biệt giữa bộ não lưu giữ trải nghiệm (brain registering an experience) và việc kiểm tra xem liệu trải nghiệm tương tự đã thực sự xảy ra trước đây hay chưa.

Moulin thì đề xuất rằng ‘déjà vu’ là do “diễn giải quá mức nhất thời về sự quen thuộc, điều gì đó xuất hiện thông qua sự hoảng sợ và căng thẳng; hoặc gây ra cảm giác về điều gì đó khác. Khi bạn có phần não rất dễ bị kích thích này thì bạn sẽ luôn "quét" môi trường xung quanh để tìm kiếm sự quen thuộc,” ông nói, “Hiện tượng ‘déjà vu’ trong quá trình vận hành, cho thấy, sẽ có một số thông tin khác được gửi đến sau đó, nói rằng: 'Điều này không hề quen thuộc tí nào'.”

Moulin cho ra kết luận rằng não bộ vận hành một loại phổ (spectrum) truy xuất hồi ức, từ việc giải thích được trí nhớ thị giác (visual memory) ở một đầu và trạng thái đầy đủ vĩnh viễn ‘déjà vécu’ ở đầu đối lập. Tại một số điểm dọc theo quang phổ ‘déjà vu’ - không nghiêm trọng như ‘déjà vécu’, cũng không liền mạch như cách bộ não phải hoạt động.

Nhưng tại sao những người khỏe mạnh bình thường lại gặp phải déjà vu?

Brown gợi ý rằng ‘déjà vu’ chỉ xảy ra với những người khỏe mạnh nhiều nhất là vài lần trong một năm, nhưng có thể hơn nếu bị kích thích bởi các yếu tố môi trường. “Mọi người trải nghiệm điều đó chủ yếu khi họ ở trong nhà,” Ông nói, “thực hiện các hoạt động giải trí hoặc thư giãn có thể là cùng bạn bè; mệt mỏi hoặc căng thẳng thường đi kèm với ảo tưởng". Ông nói rằng ‘déjà vu’ tồn tại tương đối ngắn (khoảng 10 đến 30 giây), và thường xảy ra vào buổi tối hơn là buổi sáng và vào cuối tuần hơn là các ngày trong tuần.

Một số nhà nghiên cứu cho biết có mối liên hệ giữa khả năng ghi nhớ những giấc mơ và khả năng trải nghiệm ‘déjà vu’. Trong cuốn sách của mình, Brown nói rằng mặc dù ‘déjà vu’ xảy ra ở cả nữ và nam giới, nhưng nó xảy ra nhiều hơn đối với những người trẻ tuổi, những người đi du lịch nhiều, có thu nhập cao và có quan điểm chính trị và xã hội hơn người bình thường.

“Có một số lời giải thích hợp lý cho điều này,” Brown nói với tôi. “Những người đi du lịch nhiều hơn có nhiều cơ hội gặp gỡ một khung cảnh mới mà họ có thể thấy quen thuộc một cách kỳ lạ. Những người có niềm tin tự do có thể có nhiều khả năng thừa nhận đã có những trải nghiệm tinh thần lạ thường và sẵn sàng tìm hiểu chúng. Một người có tư tưởng bảo thủ sẽ tránh thừa nhận có những sự kiện tinh thần kỳ lạ, vì chúng có thể được coi là dấu hiệu cho thấy họ không ổn định.

“Vấn đề tuổi tác là một rào cản vì trí nhớ thường trở nên kém hơn khi chúng ta già đi, thay vì ngược lại. Tôi đoán rằng những người trẻ tuổi cởi mở hơn với những trải nghiệm và tiếp xúc nhiều hơn với những diễn biến tâm thần bất thường”.

Một trong những nghiên cứu toàn diện đầu tiên về ‘déjà vu’ được thực hiện vào những năm 1940 bởi một sinh viên ở New York tên là Morton Leeds. Leeds đã lưu giữ một cuốn nhật ký cực kỳ chi tiết về những trải nghiệm ‘déjà’ thường xuyên của mình, ghi chép lại 144 tập trong suốt một năm. Có một tập, anh ấy viết, "mạnh đến mức khiến tôi gần như buồn nôn".

Sau cơn động kinh gần đây nhất, sự kiện mà tôi trải qua có điều gì đó quen thuộc. Cú sốc của việc ‘déjà vu’ lặp đi lặp lại không hẳn gây ra đau đớn về thể xác, mà thay vào đó là về tinh thần - có thể khiến người bệnh cảm thấy kinh khủng. Hình ảnh trong mơ đột nhiên làm gián đoạn những suy nghĩ bình thường. Các cuộc trò chuyện dường như đã diễn ra. Ngay cả những việc tầm thường như pha một tách trà hay đọc một tiêu đề báo cụ thể cũng có vẻ quen thuộc. Đôi khi có cảm giác như tôi đang lướt qua một album ảnh không có gì ngoài chính một bức ảnh được tái tạo hồi kết.

Một số cảm giác thì dễ bị loại bỏ hơn những cảm giác khác. Càng đến gần hơn với việc tìm ra câu trả lời cho nguyên nhân gây ra ‘déjà vu’ cũng có nghĩa là tôi đang dần chấp nhận các đợt ‘déjà’ dai dẳng hơn, những đợt làm tôi khó sống nhất.

Đêm trước khi hoàn thành bài viết này, tôi trải qua một trận co giật. Thời hạn tôi đã đăng bài này hiện lên rõ ràng đã ở trong đầu tôi, ngay khi tôi đột nhiên có một hồi ức mãnh liệt về việc ngồi viết đoạn kết này. Khi tôi lấy lại đủ bình tĩnh để đọc đề mục phải hoàn thành vào ngày hôm sau, không có gì ngoài khoảng trống. Đó là một ảo tưởng. Bây giờ tôi thực sự đang ‘gõ’ kết luận này. Mượn một cấu trúc lỗi ngữ pháp nổi tiếng, đó là, như ‘déjà vu’ tất cả lại lặp lại một lần nữa.

 ----------

Tác giả: Pat Long

Link bài gốc: My déjà vu is so extreme I can’t tell what’s real any more

Dịch giả: Phan Thị Bảo Hân - ToMo - Learn Something New

(*) Bản quyền bài dịch thuộc về ToMo. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là "Dịch Giả: Phan Thị Bảo Hân - Nguồn: ToMo - Learn Something New". Các bài viết trích nguồn không đầy đủ, ví dụ: "Theo ToMo" hoặc khác đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

(**) Follow Facebook ToMo - Learn Something New để đọc các bài dịch khác và cập nhật thông tin bổ ích hằng ngày.

(***) Trở thành Tình nguyện viên, Thực tập sinh Part-time tại ToMo để rèn luyện ngoại ngữ và đóng góp tri thức cho cộng đồng tại: https://bit.ly/ToMo-hiring.

----------------------------

Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership

213 lượt xem

lh-fulllh-x